Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Cầu Mưa

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 22830)
6. Cầu Mưa

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển hai
Báo ân

1. Chương hai: Báo Ân

1.6 Cầu Mưa

Trời nắng lâu ngày mà không mưa, sơn môn (chùa) phải yết bảng cầu mưa. Sau đây dựa theo Kinh Đại Vân Luân cầu mưa. Cần lưu ý: lập đàn tràng nên chọn nơi sạch sẽ, đủ rộng cho số người tham dự. Cấu trúc đàn tràng sao cho thích hợp, trang nhã đẹp mắt; trên bàn bày biện hoa quả, lễ phẩm và hương đèn xoay về hướng đông; các bàn phía tây, nam, bắc cũng tương tự. Như vậy đều cúng long vương một thân 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu hay 9 đầu. Bốn góc đàn tràng, mỗi góc cắm 7 lá phan màu xanh; mỗi bàn có bình hoa, dĩa quả, đèn dầu. Chung quanh đàn lấy chiếu làm tường, bốn bên có 4 cửa, mỗi bên có 2 lối đi cho long hộ vệ lấy đó làm ranh giới. Kinh ghi rằng hoặc lấy tro hay mực làm ranh giới mà ngày nay thường dùng mấy thứ này thay thế. Đầu rồng hướng ra phía cửa mà đuôi uốn lượn hợp với bụng nó. Ngoài cửa có che cũng lấy chiếu làm ranh, chọn một vị cao tăng trì giới đức hạnh làm chủ đàn; chư tăng cũng lựa người giới hạnh thanh tịnh để tụng kinh mới có hiệu quả tốt. 

Ngoài ra, cũng phải cắt đặt 2 người thị giả lo chăm sóc hương đèn, châm nước cúng và những lúc cần… như Kinh có ghi rõ. Nhất là trong thời gian Chùa cử hành lễ cầu nguyện, ngày đêm phải nghiêm tịnh, chí thành tụng kinh, niệm chú đến một tuần, 2 tuần, hay đến 3 tuần; tự nhiên được cảm ứng tới chư thiênlòng thành được thành tựu như ý nguyện.

Chứng nghĩa giải rằng: nói một cách tổng quát, đàn dùng đất vàng thế trâu, núi tai trâu. Trâu núi tức giống bạch ngưu ở dãy Himalaya, chúng ăn toàn cỏ thơm ở núi tuyết, mở chúng có mùi thơm có thể dùng được. Những giống trâu khác đều hôi hám không nên dùng. Ở phương đông chúng ta không thể lấy được loại hương này nên dùng đất vàng sạch thay thế. Theo Kinh Trang Nghiêm ghi rằng: màu xanh, sắc xanh án hướng bắc, màu đen là lấy nước công đức vậy. Ngoài ra, nói một khủy tay mà ngày nay tương đương một mét; 3 khủy tay tức 3 mét vậy.

Kế nói về hình long vương ở bốn bên đàn tràng. Hình long vương vẽ trên bình phong, tấm bình phong cao 2m60, rộng 1m60. Bình phong treo cao 1m20, ở giữa dùng lụa mỏng bồi (dán) chắc chắn. Các hướng khác theo Kinh chỉ dẫn hình vẽ, số đầu rồng nơi tranh vẽ. Tại hướng đông, rồng 1 thân 3 đầu; hướng Nam, 1 thân 5 đầu; hướng Tây 1 thân 7 đầu; hướng Bắc 1 thân 9 đầu và cùng với quyến thuộc chúng vây chung quanh phía dưới là biển sóng, trên có mây bay. Quyến thuộc long vương rất đông không thể vẽ hết. Nên mỗi phương chỉ vẽ 4 quyến thuộc đứng 2 bên tả hữu; số đầu rồng y theo Kinh mà vẽ.

Kế tiếp, Kinh nói về tấm màn. Tấm màn ở giữa đàn tràng hướng về Đông che tòa cao, bề ngang bề rộng 2 trượng, chu vi 9m, giữa nhô lên như mái nhà. Màn này may bằng vải xanh, chống chỏi dùng trụ gỗ sơn đen. Vả lại màu làm cho đen, buộc vải 4 góc thả thòng xuống đất; riềm của 4 phía đều rủ châu anh lạc thanh tịnh trang nghiêm, rực rỡ như châu báu vậy.

Kế tiếp nói về bàn của chủ đàn: chủ đàn là vị tăng, bàn xoay hướng Đông. Bàn có một chỗ ngồi lấy gỗ đóng, thiết chỗ tòa cao 4 bàn nhỏ cao 2m60, vuông 3m dùng vải xanh trải để Kinh lên trên rồi dùng miếng vải xanh đậy Kinh lại, khi nào tụng hẳn giở ra. Chỗ ngồi cao 1m60, vuông 2m; chiếu trải ngồi dùng đệm xanh lót lên trên. 

Kế nói tới thứ tự 2 bàn ngồi: thứ tự 2 bàn sắp đặt 2 bên chủ đàn nhìn qua 2 phía, Nam Bắc đối diện hoặc cả 4 bên, tùy số người mà bàn cao 9cm, vuông 2m cũng dùng gỗ đóng để Kinh có phủ vải giống như bàn chủ đàn. Chỗ ngồi dưới đất trải đệm xanh vuông vức 2m. 

Kế là hương đèn hoa quả: một thảo lư dùng dâng hương (niệm hương), một cặp đèn dùng đèn cầy đốt. Trước bàn để một lư trầm dùng hương bột, hương xông đốt cho thơm hoặc dùng trầm để ở 2 bàn xông hương. Nói chung các loại hương thơm phải có thị giả luôn luôn theo dõi ngày đêm không cho tắt để tỏ lòng thành kính. Bốn bình hoa để ở bốn góc đàn tràng trước các cây đèn. Bình phải tương xứng không lớn quá cũng không nên nhỏ quá và để nước bên trong vừa phải để giữ hoa lâu tàn. Dùng nước thuốc xịt cho hoa tươi tắn cũng như rảy nước sương sương lên hoa. Mỗi ngày chế châm thêm nước hoặc có thể đem ra ngoài thoáng khí nếu để cách đêm. Làm vậy làm cho hoa tươi tốt không héo, làm cho long thiên quỷ thần hoan hỷ

Kế nói tới quả: mỗi lần cúng chọn 5 loại trái cây khác nhau để hợp với ngũ hành (5 thứ lưu hành) trong trời đất. Dĩa quả lớn nhỏ tùy vị tríbàn thờ, miễn sao quả cho tươi tốt là được.

Kế nói về phan: phan dùng 28 lá trồng trụ chung quanh 4 góc đàn tràng: mỗi góc 7 lá, dùng vải xanh mới để may chiều dài 3m; cán dùng mực đen sơn, đầu cán gắn khoăn để treo.

Kế nói về cách đặt đèn: thông thường 28 ngọn đặt 4 bên đàn tràng, mỗi bên theo 7 lá phan làm chuẩn. Đèn còn tùy vị trí mà cở lớn nhỏ cho cân xứng. Trên mỗi đèn khắc chữ Long bên trong có đổ dầu, và ngày đêm giữ cho đèn cháy sáng mãi.

Bên trên nói về đàn pháp xong, kế nên dựa theo Kinh làm đúng pháp, Kinh ghi rằng: tôi nay có mặt tại hội này, mong tất cả các vua rồng nương vào đây vì muốn cầu mưa. Trước là triệu thỉnh các vị vào đàn; tăng chúng đều tắm rửa sạch sẽ, giữ giới thanh tịnh, tất cả trang nghiêm vào đàn. Chủ sám và 2 vị tả hữu sẵn sàng và Trụ Trì mặc áo xanh, đắp y màu xanh. Đến giờ mẹo (từ 5-7g sáng) vào chánh điện niệm hương, lạy Phật xong. Chủ sám cử tán:

Ngọc trời lồ lộ, biển giác sóng vàng,

Cõi thế giới ba ngàn phân đà tán,

Tam muội sạch làu,

Ít nhiều nước sáng,

Một giọt rạng sơn hà.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Tiếp theo cầm chén nước tịnh đọc vừa kiết ấn cam lồ

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Đầu nhành liễu Bồ Tát cam lồ rãi

Một giọt tung trải khắp mười phương

Tanh hôi tẩy sạch dường lắng trong

Gia hộ đàn tràng được thanh lương

Lời mật ngôn ngưỡng mong trì tụng…

Chúng cùng tụng Chú Đại Bi (vị chủ sám đi xung quanh làm lễ sái tịnh; đi chậm rãi, trước đi trong chánh điện theo phía tay mặt ra tới ngoài cửa đi nhiễu một vòng, từ từ bước vô lễ đàn đi tới đàn trên đi nhiễu 3 vòng xong, trở lại chỗ. Chúng có thể tụng 3 biến Chú Đại Bi tùy theo vị trí rộng cở nào và thì gìờ nữa).

Chủ sám bắt lên: Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần). Chủ sám bước tới vào ngay chính giữa niệm hương bạch Phật, phía sau vị Trụ Trì cùng niệm hương xong, lui ra chỗ của mình, cùng đứng tán bài:

Ruộng cả đất cằn hạn hán gây nên

Dân chúng tinh thành cầu khẩn nào quên

Lúa mạ khô quèn kỳ nguyện ngày đêm

Mong cho khắp chốn được mát êm

Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Xong rồi xướng đảnh lễ: Nam Mô thập phương biến pháp giới thường trụ Tam Bảo (3 lần).

Pháp sư nhiếp tâm quán tưởng 10 phương chư Phật, chư đại Bồ Tátlong thiên thánh chúng đều dùng thiên nhãn trông thấy, thiên nhỉ lắng nghe, tha tâm thông rõ biết. Biết đây là nước Việt Nam, tỉnh, huyện, xã… lâu nay không mưa, vì đó mà theo đúng pháp lập đàn, theo Kinh triệu thỉnh các Ngài tới đây chứng minh gia hộ. Tưởng xong liền bạch:

Cung kính nghe rằng Như Lai diễn pháp

Thường dạy tụng Kinh triệu thỉnh trời mưa

Lòng từ cao hiển nghĩa cả chở che

Thiết tòa cao phô vẽ màu đất vàng

Chí thành sắp đặt pháp đàn

Đốt đèn nhang, lập tràng phan

Theo Kinh triệu thỉnh sẵn sàng

Nhờ đây khổ hết lạc an tái hồi

Rồng thiêng linh cảm tới nơi

Vẹt mây dâng nước người người hân hoan.

Nay đây tại Việt Nam… tỉnh, quận, xã… ngày… tháng… năm… trời nắng hạn đã lâu, ruộng lúa nửa khô sắp thành đồng không mông quạnh. Do vậy, y theo Kinh thiết lập đàn tràng cầu trời giáng mưa để cứu vớt muôn dân. Song chỉ sợ nghi tiết thất cách thiếu sót, tăng già giới đức kém nghiêm, cầu không đúng pháp khó mà đạt sự cảm thông. Tha thiết nghe Đại Luân minh chú hay trừ dứt lỗi này. Đại chúng chí thành cùng tụng chú Đại Luân Minh Vương 7 biến để an vị đàn nghi. Tụng 7 biến xong, pháp sưđại chúng tụng kệ khai kinh, tán lư hương, tụng chú Đại Bi 21 biến. Xong, tiếp xướng thỉnh:

Nhứt tâm triệu thỉnh… long vương… mong mỏi dùng tha tâm thông, với thần túc thông; trên vâng lời Phật chỉ định, dưới thương xót chúng hữu tình mà đến tỉnh, quận, xã… sớm giáng cơn mưa. (Chú Đại Minh Luân Vương).

Thỉnh xong, sám chủ quỳ gối chấp tay bạch theo pháp đại từ trong Kinh và ban chú an lạc rồi; sám chủ và vị thầy đại diện lắc linh, đại chúng cùng tụng chú đại từ pháp và thí nhứt thiết lạc 3 lần. Sau đó sám chủ lễ thỉnh chư Phật:

Nhứt tâm phụng thỉnh hoặc Đa Bảo Như Lai, Bảo Thắng, Diệu Sắc Thân, Quảng Bác Thân, Ly Bố Úy, Cam Lồ Vương, A Di Đà Như Lai, hoặc thỉnh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai v.v.. Thỉnh xong, tiếp đọc:

Mong thay chư Phật Như Lai dùng từ lực vô duyên sắc xuống tỉnh, quận… sớm giáng trận mưa. Nếu đàn tràng có 54 vị nên chia làm 6 ban, mỗi ban 9 vị tuần tự thỉnh cho đến ban cuối thỉnh xong, vị sám chủ quỳ gối chấp tay, nhịp một hồi 3 tiếng khánh, đọc Kinh, trì chú, niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện…

Bài hồi hướng

Cầu mưa công đức hạnh nhiệm mầu

Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu

Khắp nguyện huyện, châu gặp hạn hán

Chóng được mưa nhuần thấm đượm sâu

Việc gấp như cứu lửa cháy đầu

Vì cầu tiêu chướng giáng mưa mau

Ngưỡng mong Tam Bảo, thiên long thảy

Thương xót chúng sanh hợp thời mưa

Mười phương ba đời Phật Như Lai

Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

Tam tự quy đảnh lễ.

Đàn này vị thầy hương đăng phải hết lòng lo liệu không được để cho bất cứ một người nào bàn tạp làm mất thanh tịnh. Sau giờ ngọ, nghe hiệu lệnh xong, vị pháp sư và 2 người tác bạch cùng Thầy Trụ Trì là 4 người vào đàn tràng hành lễ. Chí thành tụng kinh đọc lớn tiếng cầu mưa, như nghi thỉnh trước giờ ngọ, sau ngọ chỉ tụng kinh liên tục cho đến khi nào mưa lớn mới thôi. Trừ đàn này ra, các điện thờ chung quanh cũng phải thứ tự luân phiên 10 người hay ít nhất là 4 người tụng 21 biến Chú Đại Bi, niệm hiệu Quan Âm 1000 lần, lạy 12 nguyện của Bồ Tát, hồi hướng, phục nguyện, tự quy và đảnh lễ. Kế tiếp đổi ban thứ hai luân phiên tụng suốt ngày đêm không dứt cầu trời chóng mưa. Các nghi cúng trên một mực theo đúng nghi thường, chỉ viết bài vị: Nam Mô vô biên trang nghiêm hải vân oai đức luân cái long vương và các quyến thuộc. Đảnh lễ xong, đại chúng tán bài:

Thánh chúng long vương,

Oai đức khó lường,

Vâng lời Phật dạy,

Tán (rải) ngọc quỳnh tương,

Quang lâm đạo tràng,

Nhuần sạch thanh lương,

Một giọt nhuận 10 phương.

Nam Mô Vân Luân Hội Thượng Long Vương Thánh Chúng Bồ Tát (3 lần).

Kế đọc sớ cầu mưa bằng giọng thống thiết, nên viết 4 hàng: hàng đầu viết tạo 3 nơi hóa hoặc chế bằng giấy viết hiệu 3 quan, cũng như 3 lồng sớ, mỗi tờ phóng trên 1 tờ giấy hiệu quan trên tay biến hóa thật tài tình. Một tờ trình Tam Bảo, một tờ trình chư thiên, một tờ trình các vị long vương. Để lại một phong bì mỗi ngày đọc một lần cho đến khi tụng xong hồi hướng rồi mới thiêu đốt.

Sớ rằng: thiết nghĩ, ánh dương thái quá làm nóng cháy, muôn vật đều khô héo, đây trên do trời phạt, dưới do dân nhiều tội lỗi. Chỉ chư Phật mở rộng môn từ bithần chúcảm ứng cơ cầu, do vậy với lòng thành, thiết lập đàn tràng cầu mưa tỏ bày tâm cảm, ngưỡng mong thánh đức dũ lòng đón nhận. Nay tại Việt Nam (Úc Đại Lợi)… tỉnh… phủ… huyện… chùa… Trú Trì (pháp danh). (Nếu có quan chức mời chú nguyệnbiên tên họ vào sớ)… Hôm nay chí thành niệm hương đảnh lễ Đại Vân luân chủ, Thích Ca Văn Phật, cầu vũ hội thượng chư Phật Thánh hiền, thiên long tám bộ, ty sở các thần, tọa đài hoa sen, mong cảm thông lời bày tỏ: Nhân chở che bổn xứ gặp lúc nắng hạn lâu ngày ban cho chỗ mưa nhỏ. Suối khe cạn nước, vạn vật khô cằn; muôn dân trăm họ, khổ thống điêu linh. Cơ quan chức trách lo nghĩ như khẩn cầu, nghe Phật dạy lấy vầng mây lớn, tụng kinh trì chú cầu mưa; xin vì cảm thông, cho… (tên) nay ngày… (kiến lập đàn tràng), y pháp cần cầu, vân tập tăng chúng tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Song e sự lý không cùng, lễ nghi không đúng pháp khó cảm đến long thiên xin rộng lòng tha thứ; chưa có mưa nhuần thấm xuống, do vậy chí thành dâng sớ: trước trình Tam Bảo thánh chúng, kế thưa 3 cõi chư thiên, tiếp thưa cùng long vương thánh chúng, ngưỡng cầu rũ lòng thương chứng giám, đoái tưởng chúng sanh, mong cho tội nghiệp sâu dầy lấy lượng bình đẳng gội nhuần, dậy sấm chớp nơi núi sông, đỗ mưa tuôn khắp chốn, cứu sanh linh đồ thán, đang phải chịu nạn tai. Lại cầu cậy gió thầy mưa trên chở dưới che địa thần lúa thóc, hết lòng quan tâm, che chở cho lúa được mùa cũng giống mùa thu, tháng hòa năm thuận, muôn dân an lạc thái bình. Cẩn niệm chí thành cúi đầu dâng sớ.

Sớ văn đây cung trình Tam Bảo chứng minh, đài sen thỉnh tọa; chư thiên cùng lên bảo tòa, long thần chư vị thần linh lên bảo tòa.

Ngày…tháng…năm …Trụ Trì…cẩn bạch.

* Phụ Chú: Đàn Đại vân: đàn chính ở giữa, 2 bên treo nhiều câu dùng giấy trắng, mực đen viết chữ đậm nét như: 

Đại Chiêm cam sâm điền trù đắc nhi tư dục,

Kỳ phu huệ trạch thảo mộc bị dĩ sanh thành.

(Mưa lớn đượm nhuần ruộng được mùa thêm nẩy nở,

Sông Kỳ thẩm thấu cỏ cây chớn chở phát sanh).

Chứng nghĩa ghi rằng: tổ chức nghi thức cầu mưa dựa theo Kinh Phật soạn ra. Duy chỉ lập đàn, sắp xếp chỗ ngồi, phan phướng, hình tượng v.v... việc chi tiêu tiền bạc tốn kém. Nếu quan chức đứng lo liệu vấn đề trở nên rất dễ giải quyết. Giả như chư tăng phát tâm lo liệu có thể dùng giấy, gỗ thay vàng lá. Kỳ nguyện cốt ở thành tâm trang trọng mà thôi. Song trải qua nếu có lúc mưa lớn cũng làm cho tạnh dứt, tạnh hẳn mới thấy được hiệu quả kinh này. Cũng có thể dùng để cầu trời tạnh ráo. Chỉ thay đổi nội dung 2 chữ là được, đổi chữ cầu mưa thành cầu nắng và cũng đổi lời sớ nữa. Đây là việc lợi ích lớn lao ngoài nghĩ ngợi, cảm thấu các bậc thần minh. Ngoài ra, đàn tràng tụng Chú Đại Bi, giúp thêm lời ban ân chóng cảm kích tới mọi sự cầu. Nếu như người cầu không thỏa mãn không phải do tâm đại bi đà la ni. Thảng hoặc nơi núi cao, thôn làng vắng vẻ, không có quan chức tham dự, nên mời chư tăng thanh tịnh xa gần tới tụng kinh theo chỗ chuyên biệt của họ, chí thành cầu nguyện cũng có thể có kết quả trời mưa. Kinh Hoa Nghiêm cảm ứng lược ký ghi rằng, ngài Tăng Đạo Anh, họ Trần người quán huyện Bồ, 18 tuổi cưới vợ ở chung 5 năm thề không gần nhau. Sau theo nghe Cự pháp sư trong huyện giảng Kinh Hoa Nghiêm bèn thế phát xuất gia theo nhiều người vào núi Chùa Bá Thê tu pháp tham thiền. Gặp tiết trời nắng hạn giảng Kinh Hoa Nghiêm để cầu mưa. Có 2 cụ già, mỗi vị có 2 đồng tử theo hầu tìm đến nghe giảng. Ngài Đạo Anh thấy lạ bèn hỏi, mới biết đó là hải thần. Nhân đó nói rằng, nay vì đàn việt xin cho trận mưa. Lão trượng sai 2 đồng tử, một từ lỗ cửa sổ phóng ra trong thoáng chốc, một trận mưa to xối xuống, xa gần đều thấm nhuần. Công đức giảng Kinh Hoa Nghiêmcảm động đến trời làm đỗ cơn mưa lớn. Cũng như Kinh Pháp Hoa Trì Nghiệm ký ghi rằng, pháp sư Vân Quang, đời Lương, niên hiệu Phổ Thông, năm thứ hai, tập họp chúng nơi đại điện giảng Kinh Pháp Hoa, trời rưới mưa hoa giữa thiên không. Vua đem việc hạn hán hỏi ngài Hòa Thượng Chí Công. Chí Công nói rằng: có mây có thể đưa tới mưa. Vua nhân đó thỉnh Ngài giảng Kinh Pháp Hoa đến đổi thấm nhuần khắp nơi trời bèn đỗ mưa to nơi nơi đều lợi lạc. Nhân việc giảng Kinh Pháp Hoa đây mà cảm động trời đỗ mưa vậy. 

Ngoài ra cũng có câu chuyện kể rằng: Ngài Thích Chân Quán chùa Nam Thiên Trúc đời Tùy Linh Ấn họ Phạm ở Tiền Đường. Lúc nhỏ tướng dị kỳ, lưỡi đỏ vằn quanh, 2 tay trái phải có chữ tiên nhơn, thường tụng kinh Pháp Hoa định mỗi ngày một bộ. Năm Khai Hoàng thứ 14 lúc trời hạn hán mời Thầy giảng Kinh Hải Long Vương, trời liền nhóm mưa. Nhờ giảng Kinh Hải Long Vương này mà làm cho trời mưa vậy. Ngoài ra, Ngài Thích Trung LậpMinh Châu đời Tống, họ Trần người huyện Ngàn, xuất gia năm 20 tuổi, được Vua ban hiệu Minh Trí vào đời Hy Ninh. Ở Nam Hồ thay thế Ngài Thần Trí mỗi ngày chuyên tu pháp tham thiền. Vào năm Nguyên Hựu Ngài tái chủ trì Chùa Diên Khánh chuyên lạy Kinh Pháp Hoa 7 năm tu pháp viên mãn. Một hôm trong thiền quán, Ngài thấy mình ngồi trong một chiếc thuyền lớn bơi đi tự biết tới suối tuyền dũng; Ngài tụng Pháp Hoa hơn 10,000 bộ cứu được hạn hán qua đi rất linh nghiệm. Tụng Kinh Pháp Hoa và lạy sám Pháp Hoa mà làm cho trời mưa vậy. 

Lại một chuyện khác, đời Tống hội Kê Đạo vị sơn, Ngài Thích Tông Lợi đã thọ giới Tỳ Kheo, tới Cô Châu nương Ngài Thần Ngộ lạy sám Pháp Hoa 3 năm. Một hôm, thấy Bồ Tát Phổ Hiền cỡi hư không qua trước mặt, tìm hỏi thành mới bích hồ, chuyên tu niệm Phật tam muội. Năm Chánh Hòa nguyên niên trời hạn hán, Ngài cầu mưa cảm tới long vương hiện thân sắc vàng rưới mưa đủ nước. Do công phu niệm Phật chí thành làm cho trời mưa. 

Kinh Kim Cang Trì Nghiệm ký ghi, đời Đường Khai Nguyên năm 93, Lữ Văn Triển làm việc ở huyện Lãng Trung, rành rẽ Kinh Phật, lại chuyên trì tụng Kinh Kim Cang đến hơn 30,000 lần nên được điềm linh ứng kỳ dị. Cuối năm nọ, 3 cái răng đều rụng một lượt, bỗng mọc lại như cũ. Lúc còn làm việc tại Lãng Trung nhằm năm hạn hán, Vua ra lệnh dân chúng cầu mưa, Ngài vừa tụng một biến trời bèn đỗ mưa lênh láng; lại khổ ngập nước liền khiến tụng Kinh cầu dứt mưa, hợp thời đáp ứng. Do tụng Kinh Kim Cang làm cho trời mưa cũng như dứt mưa.

Một câu chuyện khác: Ngài Liên Trì đại sư ở Minh Quí vừa đi tham học trở về Hàng Châu, trên đường đi muốn vào thăm một tu viện trên núi cao, thấy mây giăng đầu núi u tịch, Ngài bèn lấy gậy chống. Lúc đó trời đang hạn hán, dân làng mời Thầy tụng kinh cầu mưa

Thầy nói: “Lão tăng ở đây chỉ biết niệm Phật và không có pháp thuật nào cầu mưa được cả”.

Dân chúng nói: “Chỉ cần thỉnh Đại Sư niệm Phật”. Mời Thầy ra khỏi núi tới bờ ruộng niệm Phật, thế là mưa kéo tới ngay. Dân làng quá cảm niệm ân đức Ngài nên hoan hỷ ủng hộ kẻ công người của lập nên ngôi chùa cho Ngài tu niệm. Đây cũng chỉ do công phu niệm Phật mà cảm được mưa vậy. Cho nên việc cầu mưa hoàn toàn nhờ vào công đức chư Tăng hằng ngày công phu tu tập mới có thể cảm ứng được; cũng nên mời vị chủ lễ trang nghiêm giới đức mới có hiệu quả. Nếu như mời vị không đủ giới đức, chư Tăng thiếu tu chỉ làm trả lễ chiếu lệ nên cũng khó mà cảm được tới trời. Thậm chí còn làm ồn ào phức tạp như uống rượu, ăn thịt, vui đùa, làm điều bất chính, làm sao cảm thấu trời được, lại càng tạo thêm nhiều tội lỗi nữa!
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49639)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34570)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33399)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43846)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56953)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47472)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39363)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38415)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52859)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36541)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32186)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40375)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43405)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31408)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46646)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36108)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28639)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29169)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31824)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28743)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33272)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29064)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60909)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39666)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26595)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29595)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37280)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40012)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26791)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42577)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37200)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28233)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28841)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26346)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27113)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26148)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34518)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27748)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30417)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33176)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28494)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30009)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25447)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21797)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51191)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26637)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28555)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27651)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24287)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27383)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31835)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30106)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27636)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35364)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27381)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29953)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31666)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22968)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24110)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22950)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant