Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Lễ vía Văn Thù

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15840)
8. Lễ vía Văn Thù

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển ba
Báo đáp nguồn gốc

1. Chương ba: Báo Đáp Nguồn Gốc

1.8 Lễ vía Văn Thù

Ngày mồng 4 tháng Tư âm lịch là lễ vía Văn Thù đại sĩ đản sanh. Theo như nghi lễ vía Dược Sư. Nhưng niệm danh hiệu là:

Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát
 (3 lần).

Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật phẩm Nhập Pháp giới, chương quán Văn Thù ghi rằng: Lúc bấy giờ tôn giả Xá Lợi Phất đang hành đạo quán sát trong chúng Tỳ Kheo, bảo Hải Giác rằng: 

“Này Hải Giác, ngươi nên quán sát Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, thân thanh tịnh, tướng tốt trang nghiêm, hết thảy người trời khó thể nghĩ lường. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi, tròn sáng thấu suốt làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi sáng rỡ trang nghiêm trừ hết mọi khổ não cho chúng sanh. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi với số hội chúng đông đảo đều là Bồ Tát mà trước đây đã gieo trồng căn lành. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi chỗ bước đi – bên phải bên trái – tám bước bằng phẳng trang nghiêm. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi ở nơi nào trong khắp 10 phương thường có đạo tràng theo đó mà chuyển hóa. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi trên lối đi có đủ vô lượng phước đức trang nghiêm; hai bên tả hữu có kho chứa đủ các loại trân quí, tự nhiên hiện ra. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi từng cúng dường Phật, căn lành lưu lộ nên hết thảy cây cối lên xinh tươi tốt ngay thẳng. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi, vua của các cõi mây mưa cung cấp đầy đủ, cung kính đảnh lễ để cúng dường. Ngươi nên quán sát Văn Thù Sư Lợi được 10 phương tất cả chư Phật Như Lai, lúc sắp nói pháp, ắt phóng tia sáng trắng giữa lông mày, chiếu tới thân từ đầu đi vào

Đọc xong tiếp tụng chú Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát tám chữ Đà La Ni: Án A mạt la hồng khước triết la (108 biến). Tụng thần chú xong, đọc biến thực chân ngôn, cam lồ thủy chân ngôn, phổ cúng dường chân ngôn. Xong, Duy Na bạch:

Cung kính nghe Đại sĩ vốn là thầy của 7 đức Phật nên xưng là đại trí. Xưa Ngài ở cao trên Ngũ Đảnh, hiệu là Thanh Lương, ánh sáng chiếu rõ chân thường đến nơi là nhà, sắc thân thanh tịnh. Do nhân đó mà liên tưởng tới đại nguyện của Mạn Thù đã duy trì như tam muội huyễn xoay chuyển, không vuông, không thể, chẳng sắc, chẳng không là để đốt hương đảnh lễ hàm dưỡng tuệ minh bát nhã. Ca tụng tán dương gieo giống Bồ Đề. Nay nhằm ngày thanh sáng mồng 4 là lễ giáng sanh của Đại Thánh, chư tăng tề tựu đầy đủ hiến lễ cúng dường.

Lại nguyện: nghiệp thức mịt mờ, phiền não ngút ngàn thăm thẳm, mong mỏi sạch tiêu.

Duy Na đọc xong, cử tán Văn Thù:

Ngài ở trên Ngũ đảnh (núi cao) 

Thân cởi sư tử xanh; 

Mây từ che khắp chốn, 

Mưa pháp rải ban cho

Khéo diễn pháp Đà La Ni

Là thầy của 7 đức Phật

Hóa độ mãi đến ngày nay.

Nam Mô Đại Trí Văn Thù Su Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát 
(3 lần).

Chứng nghĩa ghi rằng: tiếng Phạn là Văn Thù hay Mạn Thù Thất Lợi, Trung Hoa dịch là Diệu Đức, cũng gọi là Diệu Kiết Tường. Do vạn đức tròn sáng thấy rõ bổn nguyên (tánh chơn) nên gọi là Diệu Đức; xưng danh hiệu, niệm chú kẻ thấy nghe đều lợi lạc nên gọi là Diệu Kiết Tường. Trước tụng Chương Quán Văn Thù, trích Kinh Hoa Nghiêm quyển 61, tiếp theo tụng chú trích Kinh chú gốc về Văn Thù Sư Lợi

Phật bảo Bồ Tát Kim CangThủ rằng: Tám chữ chú Đà La Ni đại oai đức này thuộc về chư Phật quá khứ đã thuyết để ủng hộ hết thảy các quốc vương tu thập thiện làm cho họ được như ý; thọ mạng dài lâu, phước đức không lường, đao binh chấm dứt, quốc gia an ninh nên vô cùng lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sinh, dứt ba đường ác, các nguyện được thỏa mãn. Nếu người nghe nhớ niệm câu chú này liền diệt bốn tội trọng, năm tội nghịch, huống gì thường niệm, người ấy có phước đức sanh nơi thập địa được bổ xứ (thành Phật); có của sở hữu không bị cướp đoạt, huống gì là chư thiên. Như người trì chú, gặp việc bức bách hay ngăn chặn được ba nghiệp thân, khẩu, ý;10 điều ác dứt sạch, do trì tụng chú này mà được thành tựu, trừ tâm bất chánh, tâm không phát Bồ Đề tâm v.v...

Ngũ đảnh tức là Ngũ Đài hay gọi là núi Thanh Lương. Kinh Hoa Nghiêm, phẩm trú xứ Bồ Tát ghi rằng: hướng Đông Bắc có một nơi là núi Thanh Lương, từ xưa tới nay chư vị Bồ Tát ở đấy. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợiquyến thuộc của Ngài, cùng chúng Bồ Tát là một vạn nguời tụ hội lại thường ở trong núi đó mà diễn nói pháp. Ngoài ra, Kinh Bảo Tạng Đà La Ni, Phật bảo vua Kim Cang Mật Tích rằng: sau khi Ta diệt độ ở Đông Bắc, Nam Thiệm Bộ Châu có nước tên là Đại Chấn Na mà ở đó có ngọn núi tên là Ngũ đảnh, Văn Thù đồng tử tu hành tại đó, vì chúng sanhthuyết pháp; và cũng có vô số trời, rồng, tám bộ chúng vây quanh cúng dường. Núi này ở Đại Châu thuộc huyện Ngũ Đài đúng như địa chí nói. Lại Văn Thù vì làm thầy của 7 đức Phật, như các Kinh Tâm Địa Quán v.v.. đều nói như thế. 

Ngoài ra, Kinh Xử Thai ghi rằng: xưa vì làm thầy Phật Năng Nhơn, nay làm đệ tử Phật. Tôn trọng chẳng cùng giáo hóa nên ta làm Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Di Lặc, bảo Thiện Tài rằng: Văn Thù Sư Lợi đồng tử hạnh tu rộng lớn, nguyện lại vô cùng, phát sanh mọi công đức của Bồ Tát không hề ngưng nghỉ. Này thiện nam tử, Văn Thù Sư Lợi thường là mẹ của vô số chư Phật; luôn là thầy của vô lượng Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh đều thành tựu viên mãn v.v.. 

Trở lên đều y cứ sách nói, nếu dựa theo sự tích theo Kinh Văn Thù Bát Nê Hoàn ghi rằng: Phật bảo Ngài Bạt Đà La: Văn Thù Sư Lợi, vì tâm đại từ bi mà sanh nơi cõi nước đông đúc xóm làng này, trong gia đình Bà La Môn đạo đức. Lúc Văn Thù sanh trong nhà sáng rực rỡ như hoa sen, Ngài ra đời từ hông phải của mẹ, thân ánh vàng tía; vừa lọt lòng mẹ đã nói được. Như Thiên đồng tử đem lọng báu che chở thân, hiện 10 tướng lạ kỳ. Có thể nói rằng vị Bồ Tát này trụ định Thủ Lăng Nghiêm tam muội (đại định) nên ở 10 phương hoặc hiện sơ sanh, hoặc hiện nhập diệt làm lợi lạc chúng sanh. Có bài kệ tán dương Văn Thù rằng:

Đại Bồ Tát Văn Thù

Không bỏ nguyện đại bi

Thân tự tại dị kỳ

Đội mão hoặc thân trần

Hoặc dắt theo hài nhi

Vui chơi nơi xóm làng

Hoặc hiện người nghèo khốn

Người già bịnh nhược suy

Hiện kẻ đói lâm nguy

Du phươngxin ăn

Khiến người phát tâm thí

Mong sao mãn nguyện kỳ

Khiến phát tâm tin nghĩ

Ba la mật truyền đi

Thống lãnh vạn Bồ Tát

Nơi ngũ đảnh tu trì

Phóng vô số tia sáng

Người thấy tội tiêu phi…

Lại nói, sau khi Phật diệt độ 450 năm, Bồ Tát Văn Thù phải đến dãy Tuyết Sơn vì 500 tiên nhơn để thuyết pháp giáo hóa làm cho tất cả được chứng quả; rồi cùng chúng tiên bay lên không và đến nơi sanh địa, Ngài xuống ngồi thiền nơi cây Ni Câu nhập định Thủ Lăng Nghiêm, hiện các tướng lạ giống 500 tiên nhơn, mỗi người hiện thần thông và đều nhập Niết Bàn. Bồ Tát dùng đủ lực thần thông, thuyết đủ pháp môn quan trọng, nhiều hạnh lợi ích, vô số sự cảm ứng… như trong Kinh-Luật-Luận có ghi rõ, nên ở đây không thể nêu hết.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33138)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6524)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11249)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30389)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30426)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12234)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11581)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12786)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34715)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9829)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52243)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10726)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10493)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10696)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10446)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13060)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16245)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21812)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9600)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7107)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10372)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12722)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12762)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16211)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16511)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13838)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13788)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9179)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16284)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12070)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11788)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15649)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12611)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14979)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11949)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13116)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14517)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20660)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13200)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10928)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20677)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14334)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20346)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17634)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14003)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31848)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12008)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant