Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. Lễ vía Quan Âm

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13243)
10. Lễ vía Quan Âm

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển ba
Báo đáp nguồn gốc

1. Chương ba: Báo Đáp Nguồn Gốc

1.10 Lễ vía Quan Âm

Ngày 19 tháng 2 âm lịchlễ đản sanh của đức Quan Âm. Nghi thức như vía Phật Dược Sư.Trước hết niệm:

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Tiếp tụng Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, phần bài kệ:

Thế Tôn tướng đẹp lạ

Con nay lại hỏi kia

Phật tử nhân duyên

Tên là Quán Thế Âm

Đầy đủ tướng đáng tôn

Phật đáp Vô Tận ý

Ông nghe hạnh Quan Âm

Khéo hiến mọi nơi chốn

Nguyện rộng sâu như biển

Nhiều kiếp khó nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn đức Phật

Phát đại nguyện thanh tịnh

Nay Ta vì ngươi nói

Nghe danh và thấy thân

Tâm niệm không bỏ qua

Hay diệt các khổ não

Như người sanh tâm hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Ra sức niệm Quan Âm

Hầm lửa biến thành ao

Hoặc trôi giạt biển cả

Các nạn quỉ, cá rồng

Do sức niệm Quan Âm

Sóng dồi chẳng chìm được

Hoặc tại núi Tu Di

Bị người xô rớt xuống

Do sức niệm Quan Âm

Như mặt trời treo không

Hoặc bị người dữ rượt

Rơi vào núi Kim Cang

Do sức niệm Quan Âm

Không tổn đến mảy lông

Hoặc gặp oán giặc vây

Cầm dao muốn làm hại

Do sức niệm Quan Âm

Liền khởi niệm từ tâm

Hoặc gặp khổ nạn vua

Hành hình muốn dứt mạng

Do sức niệm Quan Âm

Dao liền gãy từng đoạn

Bị giam cầm tù tội

Tay chân trói buộc chặt

Do sức niệm Quan Âm

Liền được mở trói hẳn

Bùa chú các thuốc độc

Muốn làm hại đến thân

Do sức niệm Quan Âm

trở lại nơi người hại

Hoặc gặp ác la sát

Rồng dữ các loài quỉ

Do sức niệm Quan Âm

Tức thì không dám hại

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vút nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quan Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng

Rắn độc và bò cạp

Khí độc phun khói lửa

Do sức niệm Quan Âm

Nghe tiếng tự bỏ đi.

Mây chớp nổi sấm sét

Tuôn xối giáng mưa đá

Do sức niệm Quan Âm

Tức thời liền tiêu tan.

Chúng sanh bị khổ ách

Vô vàn bức bách thân

Quan Âm sức trí diệu

hay cứu khổ thế gian

Đầy đủ lực thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Mười phương các cõi nước

Không cõi nào chẳng hiện.

Nhiều loại các ác thú

Địa ngục, quỉ, súc sanh

Sanh, già, bịnh, chết khổ

Dần dần khiến diệt sạch.

Chơn quán, quán thanh tịnh

Rộng lớn quán trí huệ

Từ quánbi quán

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng

Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhựt phá tối tăm

hay dẹp tai, gió lửa

Khắp soi sáng thế gian

Lòng bi răn như sấm

Ý từ diệu dường mây

Rưới mưa pháp cam lồ

Diệt sạch lửa phiền não

Cải kiện qua cửa quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức niệm Quan Âm

Cừu oán đều lui tan

Diệu Âm, Quan Thế Âm

Phạm Âm, Hải Triều Âm

Hơn hẳn âm thế gian

Vì thế nên thường niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi

Quan Âm bực tịnh thánh

Nơi khổ não nạn chết

Hay làm nơi nương tựa

Đầy đủ các công đức

Mắt lành thương chúng sanh

Biển phước đức khôn lường

Cho nên phải đảnh lễ.

Niệm danh hiệu Quan Âm 108 biến, như nghi thức thông thường. Tiếp theo Duy Na bạch:

Vì đang giữa tiết trung hòa

Trăng nước chiếu soi bóng tự tại

Giá chuông, hợp luật hoa đàm hiện tướng viên thông

Hiện bi nguyện trong 32 tướng nơi cõi ta bà

Chúng đệ tử thảy đều xưng tán

Phóng từ quang 10 vạn ức sáng

Thầy dẫn đường giúp đưa về Lạc Bang.

Mong cho… lặn hụp trong biển trần, mắc vòng phiền não, 6 căn ngang dọc, rong ruổi bôn ba tăm dạng. Ba tuệ vẫn mịt mờ chưa nhận ra chân tánh. Ví thử không nhờ đại bi của đấng cha lành cứu vớt những đứa con cùng khổ. Nay nhân ngày Khánh Đản, kính dâng hoa hương mong Ngài chứng tấm lòng thành của đệ tử chúng con, thương xót mà đón nhận.

Tiếp theo cử tán bài:

Tay cầm nhành dương

Đầu đội mảo Phật

Ngồi thiền nghiêm mật

Trên tòa hoa sen

Cứu khổ thương tình thật

Một niệm tâm thành

Độ hết thảy chúng sanh

Mở vô lượng cửa từ tâm.

Nam Mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát (3 lần).

Hôm nay hoặc lễ sám hoặc niệm hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát hay luân phiên tụng Kinh Phổ Môn.

Chứng nghĩa ghi rằng: Quan Âm cứu khổ độ sanh, nên niệm danh hiệu được cảm ứng. Các Kinh như Pháp Hoa, Lăng Nghiêm đều ghi rõ như vậy, nhiều kinh điển khác ghi chép cũng khó biết số bao nhiêu. Ở đây cô kết lại những việc cảm ứng nổi bật nhất trong tăng, lược ghi một số việc thấy rõ ràng còn dấu thiêng hay là loại giống như vậy. 

Sơn am tạp lục ghi rằng: trước đây hòa thượng Cổ Đảnh ở Kính Sơn mới sanh ra dáng người tủn mủn, môi thẳng, răng lộ chân răng, tiếng tắt khô khan, thớ da nứt nẻ, có thể nói thịt lòi trơ ra. Vì 4 tướng xấu như vậy huống chi thân thể còn lùn xịt ư; lúc còn mạnh khỏe không nói người ta cũng biết. Thầy cầu đức Quan Âm ban ngày niệm hiệu Ngài không cần đếm, ban đêm lạy tượng Bồ Tát tới số nghìn, làm như thế trong 20 năm. Tướng xấu biến thành phước tướng, môi đẹp đỏ mà răng ẩn bên trong, tiếng nói trong trẻo mà da dẽ hồng hào. Sau gặp lại tướng công chúc mừng rằng: Thầy nay tướng tốt nên ngồi sỏng trên pháp tòa làm đại chấn tông phong mà năm ra đời làm hưng thạnh giáo pháp, nhẫn đến ở Kính Sơn 12 năm và thọ 79 tuổi. Tụng Kinh, lễ đức Quan Âm dễ thay đổi yểu thọ thành thọ mạng vậy. Ngoài ra, chùa Thọ Xương tại Ôn Châu có Tuyệt Chiếu Huy ngồi hạ yên lặng, nơi phòng ngủ treo Thánh tượng Quan Âm mỗi đêm lễ lạy. Một hôm bổng thấy bình nước sạch từ suối xuất hiện làm toàn thân ông vô cùng khoan khoái. Từ đó thêm niệm cung kính càng sâu, gương trí càng sáng; do tụng kinh lạy Phật mà cảm huệ vậy. 

Lại một câu chuyện khác, có người tên Chiếu Liêu Nguyên ở chùa Thiên Đồng vốn mang nhiều chứng bịnh, năm Bính Thìn niên hiệu Hồng Võ, bịnh tình ông ngày càng nặng, thầy trụ trì khuyên ông niệm thánh hiệu Quan Âm. Mỗi ngày Chiếu niệm 10,000 hiệu tới năm sau vào ngày 17 tháng 10 lúc giờ ngọ ông tự nghĩ bịnh tình mình dẫn tới cái chết không xa; nếu không đổi lại niệm hiệu Phật A Di Đà việc niệm mới hăng hái hơn. Bổng nhiên thấy một người đàn bà tay cầm tịnh bình xuất hiện mà lại hiện ngay trước mặt, Chiếu thất kinh hồn vía lên mây. Sau định thần nghĩ kỹ lại, biết đó là Bồ Tát thị hiện, Chiếu khóc sướt mướt kể tội lỗi cầu xin sám hối. Chốc lát không còn thấy gì cả trải qua 5 ngày bịnh khổ tiêu hết. Đây do lễ bái mà trừ dứt bịnh như thế.

Sách Cao Tăng truyện ghi rằng: niên hiệu Nghĩa Hy năm đầu ở chùa Gia Tường huyện Sơn Âm có tăng Huệ Kiền tự biết sắp chết bèn phó thác nghỉ an dưỡng, tâm thành cầu đức Quan Âm dự thấy được tướng Thánh. Bịnh tuy chưa lành nhưng thần sắc như bình thường; người thị giả thường nghe hương lạ trong khoảnh khắc Thầy viên tịch. Tăng tục nghe vậy ai cũng rất đẹp lòng. Đây do lễ báicảm ứng sanh về Tịnh Độ vậy. 

Nói tóm lại, Quan Âm đại sĩ đối với chúng sanh chuyên niệm thật tin sâu, thật hành lâu ngày, thành khẩn tha thiết, hoặc tụng kinh hoặc lễ lạy đều đạt được sự cảm thông tới nguyện lực của Bồ Tát không thể nghĩ bàn.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49642)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34572)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33401)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43848)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56959)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47475)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39367)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38416)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52859)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36543)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32187)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40377)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43409)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31411)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46647)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36110)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28641)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29173)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31824)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28745)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33280)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29066)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60931)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39670)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26601)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29597)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37283)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40013)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26792)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42581)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37202)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28236)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28844)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26347)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27114)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26150)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34521)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27755)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30422)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33186)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28499)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30012)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25448)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21799)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51197)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26639)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28557)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27653)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24290)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27395)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31847)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30116)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27639)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35365)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27384)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29953)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31666)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22968)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24114)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22950)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant