Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Giỗ Sơ Tổ Đạt Ma

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16718)
1. Giỗ Sơ Tổ Đạt Ma

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển Bốn
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng 

vào đời Đường tại Hồng Châu.

Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.

Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Mục Lục 

1 Giỗ Sơ Tổ Đạt Ma 
2 Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng
3 Lễ Kỵ Trí Giả Đại Sư
4 Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ
5 Giỗ Đạo Tuyên Luật Sư 
6 Húy Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư
7 Cúng Tổ Khai Sơn 
8 Lễ Cúng Thầy Nối Thừa Pháp
9 Lễ Giỗ Hai Thầy Thế Độ và Giáo Thọ 
10 Phụ: Cúng Giỗ Cha Mẹ 
11 Lễ Tháp 
12 Thiết Đặt Cúng Dường
13 Quét tháp 

Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

Lời thuật ghi rằng, mỗi người đều có Tổ cúng giỗ để ôn nhắc lại sanh bình của các Ngài. Hình hài lúc sanh tiền đáng yêu quí, song thể xác có lúc rồi cũng tiêu vong, yêu quí có lúc cũng hết. Chỉ có tánh linh hiển nhiên không mê mờ, chẳng do sanh mà tồn tại, chẳng do mất mà quên lờ. Cho nên Phật dạy người hiển tánh minh mà người sau học hỏi. Lại nữa, gắn chặt nơi lời nói không gọi được nơi quy hướng. Từ khi giáo pháp truyền sang Đông Độ, người được truyền thừa quả là ít ỏi và Tổ Đạt Ma đến, do pháp trực chỉ mà người ta mới thoạt thấy rõ. Luận về chỗ diệu của tự tánh từ đó trở đi truyền nhau không dứt. Tổ truyền đạo về sau thờ Tổ như lửa của củi, bình chứa của nước liên tục truyền thừa cho đến ngày nay có thể nói là thạnh vậy. 

Song công ơn đức Tổ làm sao quên được chứ? Ngày lễ giỗ kỵ đâu thể bỏ bê ư? Đến như Tổ Bách Trượng Đại Trí thiền sư viết Thanh Quy làm mô phạm cho ta nay tòng lâm đuợc chấn chỉnh. Công đức ấy thật xứng đáng là Sơ Tổ truyền lưu không dứt. Cho nên pháp hội Ngài chủ tọa gọi là tòng lâm. Tổ đường nên thờ Tổ Đạt Ma bên trong, Tổ Bách Trượng kế bên tay trái mà là Tổ khai sơn của bổn tự. Nay đều xếp vào hàng trí giả cúng theo nghi chư tôn đức để giữ pháp gìn luật, báo ân đức người khởi xướng không làm sao quên được vậy.
 
1.1 Giỗ Sơ Tổ Đạt Ma

Ngày mồng 5 tháng 10 là lễ giỗ Sơ Tổ Đạt Ma. Tự viện, tòng lâm viết thông báo đọc trên đài, đăng báo hay dán tại trai đường, phòng khách ở chùa. Thông cáo ở chùa viết như sau: ngày mai là lễ kỷ niệm Đạt Ma lão tổ thị tịch, tối nay và sáng mai sau khóa lễ, nghe hiệu lệnh, đại chúng vân tập Tổ đường đảnh lễ Tổ, trưa có cúng ngọ. 

Chú ý: quét tước lau chùi long vị Tổ, tượng thờ, bàn thờ, thay nước cúng; sắm hoa quả tươi dâng cúng. Tối mồng 4, sau khi khóa lễ xong, Tri Khách thỉnh 3 hồi chuông, chúng tề tựu vào bàn Tổ, Trụ Trì niệm hương, xướng lễ

Nam Mô Tây Thiên Đông Độ lịch đại tổ sư

Nam Mô Đông Độ truyền giáo truyền giới chư vị Tổ sư,

Nam Mô Đông Độ truyền thừa thiền tông sơ tổ, Đạt Ma đại lão Tổ sư

Sau đó, rót trà dâng cúng, đại chúng lễ 3 lạy, châm trà lạy 3 lạy; đọc chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường v.v... Châm trà lần thứ 3, đồng lạy 3 lạy rồi đại chúng lui ra. 

Sáng mồng 5, sau thời Kinh Lăng Nghiêm xong, đại chúng đến trước bàn Tổ dâng hương đảnh lễ, dâng trà như hôm trước. Trụ Trì niệm hương: 

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Duy Na cử niệm: 

Nam Mô thiền tông tông chủ Bồ Đề Đạt Ma tôn giả 
(3 lần). 

Tiếp theo, tụng kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo, phẩm tâm ngữ của chư Phật: Chẳng sanh câu sanh khắp, thường câu vô thường câu, sanh tướng câu, vô sanh tướng câu; trụ khác câu, chẳng trụ khác câu; sát na câu, phi sát na câu. Tự tánh câu, lìa tự tánh câu; không câu, chẳng không câu. Đoạn câu, chẳng đoạn câu; biên câu, phi biên câu. Trung câu, phi trung câu; thường câu, phi thường câu. Duyên câu, phi duyên câu; nhân câu, phi nhân câu. Phiền não câu, phi phiền não câu; ái câu, phi ái câu. Phương tiện câu, phi phương tiện câu; xảo câu, phi xảo câu. Tịnh câu, phi tịnh câu; thành câu, phi thành câu. Thí câu, phi thí câu; đệ tử câu, phi đệ tử câu. Sư câu, phi sư câu; chủng tánh câu, phi chủng tánh câu. Ba thừa câu, phi ba thừa câu; sở hữu câu, vô sở hữu câu. Nguyện câu, phi nguyện câu; 3 luân câu, phi 3 luân câu. Tiêu tướng câu, phi tiêu tướng câu; hữu phẩm câu, phi hữu phẩm câu; cụ câu, phi cụ câu. Duyên do Thánh trí hiện pháp lạc câu, phi hiện pháp lạc câu. Quốc độ câu, phi quốc độ câu; a câu, phi a câu. Thủy câu, phi thủy câu; cung câu, phi cung câu. Thật câu, phi thật câu; số câu, phi số câu. Thần thông số câu, phi thần thông số câu. Minh câu, phi minh câu; hư không câu, phi hư không câu; mây câu, phi mây câu. Công xảo kỹ thuật xứ sáng câu, phi công xảo kỹ thuật xứ sáng câu. Gió câu, phi gió câu; đất câu, phi đất câu. Tâm câu, phi tâm câu; thi thiết câu, phi thi thiết câu. Tự tánh câu, phi tự tánh câu; âm câu, phi âm câu. Chúng sanh câu, phi chúng sanh câu; huệ câu, phi huệ câu. Niết Bàn câu, phi Niết Bàn câu. Lửa bỏng câu, phi lửa bỏng câu. Ngoại đạo câu, phi ngoại đạo câu; hoang loạn câu, phi hoang loạn câu. Huyễn câu, phi huyễn câu; mộng câu, phi mộng câu. Lửa hừng câu, phi lửa hừng câu. Voi câu, phi voi câu; xe câu, phi xe câu. Kiền thác bà câu, phi kiền thác bà câu. Thiên câu, phi thiên câu. Ăn uống câu, phi ăn uống câu. Dâm dục câu, phi dâm dục câu. Thấy câu, phi thấy câu; ba la mật câu, phi ba la mật câu. Giới câu, phi giới câu. Trời, trăng, sao câu, phi trời, trăng, sao câu. Chắc thật câu, phi chắc thật câu. Quả câu, phi quả câu. Khởi diệt câu, phi khởi diệt câu. Trị câu, phi trị câu. Xem tướng câu, chẳng xem tướng câu. Chi câu, phi chi câu. Xứ xảo minh câu, phi xứ xảo minh câu. Thiền câu, phi thiền câu. Mê câu, phi mê câu. Hiện câu, chẳng hiện câu; Ủng hộ câu, chẳng ủng hộ câu. Tộc (giòng họ) câu, phi tộc câu. Tiên câu, phi tiên câu. Vua câu, phi vua câu. Nhiếp thọ câu, chẳng nhiếp thọ câu; Báu câu, phi báu câu. Ghi câu, phi ghi câu. Nhứt xiển đề câu, phi nhứt xiển đề câu. Nữ nam chẳng phải nam câu, phi nữ nam chẳng phải nam câu. Mùi câu, chẳng phải mùi câu. Việc câu, chẳng phải việc câu; Thân câu, chẳng phải thân câu. Giác câu, chẳng phải giác câu. Động câu, chẳng phải động câu. Căn câu, chẳng phải căn câu; Hữu vi câu, phi hữu vi câu. Vô vi câu, phi vô vi câu. Nhân quả câu, phi nhân quả câu; sắc cứu cánh câu, phi sắc cứu cánh câu. Đốt (lóng đốt) câu, chẳng phải đốt câu. Rừng cây dây leo câu, chẳng phải rừng cây dây leo câu. Tạp câu, chẳng phải tạp câu; Thuyết câu, phi thuyết câu. Tỳ ni câu, phi tỳ ni câu. Tỳ kheo câu, phi tỳ kheo câu. Xứ câu, phi xứ câu. Chữ câu, chẳng phải chữ câu.

Luận về huệ gồm 108 câu như thế, trước Phật đã nói; ngươi cùng chư đại Bồ Tát cần nên tu học.

Tiếp tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường. Thời tụng kinh này, Thầy Trụ Trì niệm hương, lạy 3 lạy, dâng trà, thức ăn. Cúng bàn phía đông rồi đến bàn phía tây, quanh tới bàn thờ Tổ dâng cúng. Cúng xong trở lại lễ 3 lạy, lại đốt thêm nhang, lạy 3 lạy. Đợi chư tăng tụng xong, mời một thầy thuyết pháp. Bài pháp xong, Duy Na quỳ gối chấp tay khấn bạch:

Cung bạch Sơ Tổ xưa ở Tây Thiên, bằng một chiếc thuyền nang tới khai hóa Đông Độ. Hân hạnh thay giáo pháp chánh truyền. Tiếp nối dòng dõi của giác hoàng, hốt nhiên vô thánh, phá trừ mê mờ của nghĩa học, trăm sông đổ ra biển hẳn khác dòng. Mặt trời hồng bám vào trời, rỗng rang không đo được bóng hình, chỉ vào tâm người mà thành Phật. Hợp diệu đạo phải quên lời đã làm cho đại chấn tông phong nên có công rất lớn khi giáo huấn. Hiện ra như hoa Đàm nơi đời xấu ác, thật là vị Tổ giữ pháp khí thần châu Đại Thừa đến tận hậu lai. Nay gặp ngày lễ nhập diệt, chúng con sắm chút lễ mọn, những mong tin lời di huấn của Phật Tổ, sức gánh vác nghìn cân. Một bông hoa nở ngoài mùa xuân phảng phất hương thơm vạn đợi. Cẩn bạch trải tấc lòng thành kính ngưỡng mong chứng giám.

Đọc xong, xá một xá rồi cử bài tán:

Đức Phật giơ cành hoa

Tổ Ca Diếp mỉm cười

Ý đạo tỏ ngộ rồi

28 Tổ kế thừa

Truyền chánh pháp Như Lai

Tổ Tổ mãi truyền lưu.

(Tinh túy những bài tán Phật, Bồ Tát, tập I, trang 38, Pháp Bảo ấn tống năm 2005 của T. Bảo Lạc dịch).

Chứng nghĩa: Sơ Tổ người nam Thiên Trúc, con thứ 3 của Vua Hương Chí, giòng Sát Đế Lợi, vốn tên là Bồ Đề Đa La. Sau khi gặp Tổ thứ 27, Bát Nhã Đa La tôn giả, biết sư có điểm gì bí mật, nhân đó thử cùng với 2 anh luận việc bố thí bảo châu. Tôn giả đã phát hiện được tâm yếu rằng: ngươi ở trong các pháp đã được thông suốt. Luận Đạt Ma có nghĩa là thông đại pháp nên Tổ đổi tên thành Đạt Ma. Nhân đổi tên là Bồ Đề Đạt Ma nên Trung Hoa dịch là Giác Pháp. Ngài thưa tôn giả:

- Con đã đắc pháp nên đi đến xứ nào làm Phật sự; mong ân sư từ bi chỉ giáo?

Tổ đáp:

- Con tuy đắc pháp nhưng chưa thể đi xa được. Vả ở lại Nam Thiên (Ấn) đợi sau khi Ta tịch diệt 60, 70 năm nên qua nước Chấn Đán thiết lập đại pháp trực tiếp giúp kẻ thượng căn. Cẩn thận chớ đi xa về sau sẽ suy kiệt.

Đời Lương niên hiệu Phổ Thông năm thứ 8 nhằm năm Đinh Mùi (520), Ngài vượt Nam Hải đến Quảng Châu, thứ sử Tiêu Ngang dâng biểu cho Vua Võ Đế cho sứ nghinh tiếp. Ngày mồng 1 tháng 10 Ngài đến Kim Lăng cùng đàm đạo với nhà vua nhưng không hợp. Ngày mồng 9 tháng 10 Ngài qua đất Giang Bắc. Ngày 23 tháng 11 Ngài vào Lạc Dương lúc đó nhằm đời Ngụy Hiếu Minh niên hiệu Thái Hòa, năm thứ 10, dừng lại ở chùa Thiếu Lâm núi Cao Sơn và ngồi xoay mặt vào vách tọa thiền. Suốt ngày Ngài làm thinh, người đời khó hiểu nên gọi là bích quán Bà La Môn[1]. Lúc đó tại Chấn Đán kẻ có học chấp tướng phần nhiều kẹt vào danh tướng. Trong số người có học lại chú mục vào tôn chỉ, Tổ nêu tướng chỉ tâm không ai lãnh hội được. May gặp Thần Quang chặt cánh tay cầu an tâm, Ngài truyền y bát và dạy tụng Kinh Lăng Già lấy đó làm tâm ấn. Thái Hà năm thứ 19 ngày 5 tháng 10 năm Bính Thìn, Ngài ngồi kiết già ngay ngắn mà viên tịch. Cùng năm đó, lễ an táng Ngài tại núi Hùng Nhỉ vào ngày 28 tháng 12 và khởi sự việc xây tháp tại chùa Định Lâm. Về sau này vào đời Hậu Ngụy, Tống Vân đi sứ về gặp Tổ tại Thông Lãnh, vai quảy một chiếc giày hướng phía Tây mà đi. Tới Đường Ích Viên Giác đại sư đề tháp là Không quán, nay trên tháp còn ghi lời Kinh tụng Lăng Già 108 câu, là tâm yếu của thiền tông.

Tiếng Phạn Lăng Già, Trung Hoa dịch là không thể trở lại. Nghĩa rõ ràngcảnh giới, thánh trí, thiền tông tự giác, lìa tâm vọng tưởng, ý thức, chẳng phải tà tríthể đạt được. Tiếng Phạn A Bạt Đa La, Trung Hoa dịch là Vô Thượng, có nghĩa là biết rất rốt ráo, không còn gì trên nên gọi là bảo. Hết thảy chư Phật qua tâm ngữ mà chỉ có Phật với Phật hiểu nhau. Một là tất cả nên chỉ lấy một Kinh làm sáng tỏ. Hiểu rõ nghĩa của tâm, tức hiểu nghĩa trực chỉ của Đạt Ma, cũng hiểu ý nghĩa giơ cành hoa của đức Thế Tôn. Như nói: Niết Bàn diệu tâm là để phó chúc cho Tổ thứ 2 mà Kinh Lăng Già quyển 4 nêu làm tâm ấn. Nay lấy 108 câu dựa theo lời đức Thế Tôn đáp chung chỗ Ngài Đại Huệ đã hỏi. Trong mỗi câu đều có nửa câu trên, nêu hỏi tướng; nửa câu dưới tùy đó quét sạch mối nghi. Dựa tâm chân như quét sạch hết các tướng nên đều gọi là phi, là vô, là lìa. Nói chung ngoài cái tâm này, không pháp có thể thuyết, khiến người tin sâu để tu học như những câu Kinh tụng ở trên cũng giống ý ở đây vậy. Ngài Kính Sơn Diệu Hỷ nói rằng: hậu duệ của thiền, ban đầu do từ đức Thế Tôn giơ cành hoa tại hội Linh Sơn chỉ Ca Diếp mĩm cười. Thế Tôn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, nay phó chúc cho ngươi”. Do đấy từ đời này sang đời kia truyền thọ nhưng đến đời Đạt Ma, Đạt Ma đến Trung Quốc chủ trương không lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, thấy tánh thành Phật, đó là thiền tông vậy. Cũng như nói: luận Thiền cùng giáo, Luật vốn là một thể. Ví như trăm sông nước đều quy về biển mà không khác vị (vị mặn). Nếu các nhà giáo - luật chỉ chấp văn tự, lời nói hẳn không đạt ý chỉ gốc-ngọn. Như thiền tôngtọa thiền nhưng bỏ bồ đoàn chưa hẳn chứng ngộ, cũng là ngọn vậy. Căn cứ theo đó cho thấy thiền, giáo, luật khác tông nhưng đồng gốc chẳng phải hợp nhau chỗ chứng ngộ sao?
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15509)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14959)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14782)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13237)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14406)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20141)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18376)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30708)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12378)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15485)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13717)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13904)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13496)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14409)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13677)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16687)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15333)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31172)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18757)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14954)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14541)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14551)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13753)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19660)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14406)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14481)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14682)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14707)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17874)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13508)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13649)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14905)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14113)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16380)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15280)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13455)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13111)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13243)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12957)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14045)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14676)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14178)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14577)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12966)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13767)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13230)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13709)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14640)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14709)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13237)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12795)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13705)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13656)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13286)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13845)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13653)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12542)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14786)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12843)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12405)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant