Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12980)
2. Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển Bốn
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng 
vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

1.2 Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng 

Ngày 29 tháng giêng âm lịch là lễ kỵ Tổ Bách Trượng. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết cử tán:

Nam Mô Nam Nhạc nhị thế Bách Trượng Hoài Hải thiền sư giác linh thùy từ chứng giám (3 lần).

Tiếp theo tụng Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phạm Hạnh như:

“Lúc đó Thiên Tử Chánh Niệm, thưa Bồ Tát Pháp Huệ rằng: thưa Phật tử, hết thảy thế giới các chúng Bồ Tát y lời dạy của Phật, bỏ thói nhiễm xuất gia, làm sao đạt phạm hạnh thanh tịnh - từ địa vị Bồ Tát nhanh đạt đạo Bồ Đề?

Pháp Huệ Bồ Tát đáp:

- Này Phật tử, đại Bồ Tát tu phạm hạnh phải lấy 10 pháp làm điểm tựa, ý nghĩa, quán sát gọi là nương nơi thân – thân nghiệp; nơi miệng - khẩu nghiệp; nơi ý – ý nghiệp. Phật, Pháp, Tăng, giới nên quán xét như thế lấy thân là phạm hạnh ư? Cho đến giới là phạm hạnh ư? Nếu thân là phạm hạnh nên biết phạm hạnh như thế là chẳng thiện, là vì chẳng phải pháp, là vì nhơ nhiễm, vì xấu ác, bất tịnh, đáng che dấu, vì trái nghịch, vì tạp nhiễm, là như thây chết, là vì vi trùng nhóm. Nếu thân nghiệpphạm hạnh, thế thì phạm hạnh là đi - đứng - nằm - ngồi; ngó trông 2 bên; co - duỗi – cúi - ngước. Nếu khẩu là phạm hạnh thì phạm hạnh ấy là tiếng nói, hơi thở, môi, lưỡi, cổ họng, súc, nhổ, đưa vào, vặn ép, ngang, cao, thấp, trong, đục. Nếu ngữ nghiệpphạm hạnh thì phạm hạnh ấy là đứng dậy, hỏi han, nói hẹp, nói rộng, nói thí dụ, nói thẳng, khen, chê, nói an lập, nói theo tục, nói rõ ràng… Nếu ý là phạm hạnh thì phạm hạnh phải là giác, là quán, là phân biệt, nhiều loại phân biệt, là niệm nhớ, đủ thứ nghĩ ngợi, suy tư, đủ thứ suy tư, là hư ảo, là mơ ngủ… Nếu ý nghiệpphạm hạnh nên biết phạm hạnh ấy là tư tưởng lạnh, nóng, đói, khát, khổ, vui, lo, mừng… 

- Nếu Phật là phạm hạnh, thế Sắc là Phật ư? Thọ là Phật? Tưởng là Phật? Hành là Phật? Thức là Phật ư? Tướng là Phật sao? Tốt là Phật ư? Thần thông là Phật? Nghiệp hành là Phật ư? Quả báo là Phật ư? Nếu Pháp là phạm hạnh, như thế tịch diệt là pháp ? Niết Bàn là pháp ? Bất sanh là pháp ư? Bất khởi là pháp? Bất khả thuyết là pháp? Vô phân biệt là pháp ? Không chỗ hành là pháp ? Không nhóm họp là pháp sao? Không tùy thuận là pháp ư? Không chỗ đắc là pháp ư? Nếu Tăng là phạm hạnh thời lấy quả dự lưu hướng là Tăng? Dự lưu quả là Tăng? Nhứt lai hướng là Tăng? Nhứt lai quả là Tăng? Bất hoàn hướng là Tăng ư? Bất hoàn quả là Tăng sao? A La Hán hướng là Tăng ? A La Hán quả là Tăng ư? Ba món minh[2] là Tăng? Sáu phép thông[3] là Tăng ư? Nếu giới là phạm hạnh như vậy lấy đàn tràng làm giới ư? Vấn thanh tịnh là giới ? Dạy oai nghi là giới sao? Hỏi ba lần bạch yết ma[4] là giới ư? Hòa Thượng là giới sao? A Xà Lê[5] là giới sao? Cạo tóc là giới ư? Mặc đắp y ca sa là giới? Khất thực là giới? Sống nghề chân chánh là giới ư? Đã quán xét như thế không chấp thủ thân, không chỗ vướng buộc tu, không trụ nơi pháp. Quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, hiện tại vắng lặng, không có người tạo nghiệp, không kẻ thọ báo. Đời này không di động, biến đổi, trong đó pháp nào là phạm hạnh? Phạm hạnh từ đâu đến? Ai là kẻ sở hữu? Thể nó là gì? Do ai tạo thành mà có? Đó là không, là sắc, là phi sắc, là thọ, phi thọ, là tưởng, phi tưởng, là hành, phi hành, là thức, phi thức. Quán xét như thế cho thấy rằng phạm hạnh không thể đạt được. Các pháp 3 thời đều vắng lặng nên ý không chấp bám, tâm không chướng ngại, việc làm không hai nên phương tiện tự tại. Thọ vô tướng nên quán pháp không tướng để biết Phật pháp bình đẳng. Vì hết thảy đều là Phật Pháp và như thế gọi là phạm hạnh thanh tịnh.”

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng kỵ Tổ Đạt Ma. Chỉ thay đổi lời bạch:

Cung kính nghe rằng một lời vì thiên hạ ban pháp trong đó có qui củ phép tắc thì muôn đời biết tôn sư trọng đạo, có kỷ có cương (mối giềng) lấy lễ nhạc tòng lâm làm thạnh; pháp tánh làm phát long tượng; thiền giáo cùng đeo đuổi sự phong phú, vẹt đá tảng hưởng lộc trời. Kinh luật đều nhuần nhuyễn như nén vàng thoi ngọc; đáng nên bồi đắp tổ thiền lấy tế tự nên tuân ngày húy nhựt mà cúng kiến. Lại nguyện: Không bỏ tục đế cảm được thân thanh tịnh, tiếp nối khêu đèn trí soi sáng đêm tăm tối.

Bạch xong, xá 1 xá; Duy Na cử tán, đại chúng hòa theo:

Bực thầy thiên hạ, truyền bá chánh tông

Tuy tu diệu hạnh trụ pháp chân không

Thiền, luật làu thông

Muôn đời làm chấn song

Bách Trượng tông phong.

Nam Mô Nam Nhạc nhị thế Bách Trượng Hoài Hải Tồ Sư (tam bái). 

Ngoài ra, theo như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma. Chứng nghĩa ghi rằng: nơi bàn thờ Tồ, chính giữa thờ Tổ Đạt Ma, bên trái Tổ Bách Trượng, bên phải Tổ Khai Sơn. Tuy do tăng già qui định, nhưng chỉ có thiền tông theo đúng như vậy. Trong khi Luật tông, chính giữa thờ Tổ Đàm Vô Đức, bên trái Tổ Đạo Tuyên, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Sám Ma, ở giữa thờ Ngài Chí Công, bên trái Ngài Ngộ Đạt, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Thiên Thai, chính giữa thờ Tổ Long Thọ, bên trái Tổ Trí Giả, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Hiền Thủ, chính giữa thờ Ngài Đỗ Thuận, bên trái Ngài Hiền Thủ, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Từ Ân, chính giữa thờ Ngài Huyền Trang, bên trái Ngài Khuy Cơ, bên phải Tổ Khai Sơn. Tông Pháp Tánh, ở giữa thờ Ngài Tăng Triệu, bên trái Ngài Đạo An, bên phải Tổ Khai Sơn. Mật tông chính giữa thờ Ngài Kim Cang Trí, bên trái thờ Ngài Đại Quảng Trí, bên phải thờ Tổ Khai Sơn. Tông Phiên Dịch chính giữa thờ Ngài Ca Diếp Ma Đằng, bên trái Ngài Trúc Pháp Lan, bên phải thờ Tổ Khai Sơn. Tông Tịnh Độ chính giữa thờ Tổ Huệ Viễn, bên trái thờ Tổ Ưu Đàm, bên phải thờ Tổ Khai Sơn.

Cách thờ tự như thế mới làm nổi bật các nhà lập phái, 10 hệ phái không hơn mà các ngày cúng giỗ có ghi đầy đủ trong các sách như Cao Tăng truyện v.v.. Người nào muốn hiểu rộng nên tự tìm tòi, mong mỏi thay! Thờ Tổ từ lâu nay đã lâu mất dần tôn chỉ, nội việc cúng cũng không biết Tổ nào? Cúng ngày nào? Vong bản đến thế, Phật Pháp làm sao hưng long chứ? Tổ Bách Trượng thực hành đã nói rõ nguyên nghĩa ở trước, nên ở đây không lặp lại nữa. Nay chỉ nói tụng kinh phẩm Phạm Hạnh, điều Thanh Quy Chương 9. Thực hành tuy không giống nhau, nhưng chung vẫn là giữ giới, ngăn lỗi là hình thức các tông giống nhau. Lấy vô sở đắc quán tự tánh; quán lý nếu sáng tỏ; phạm hạnh tự tịnh. Tâm thuần là pháp cùng với pháp ứng hợp nhau; đó là không bị trần cảnh làm chướng ngại. Sự và lý tu song hành, chân và tục không hai thì một phẩm Phạm Hạnh đây thật là hữu ích trợ duyên tu thiền cũng như trợ lực Thanh Quy vậy. Không phải chỉ dâng cúng tụng kinh mà có khi cũng còn cần nên tham cứu lời Tổ dạy nữa.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15484)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14942)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13209)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14372)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20108)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18363)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12362)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15470)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13698)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13875)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13475)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14390)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13652)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16674)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15313)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31151)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18741)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14943)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14531)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14520)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13739)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19613)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14379)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14459)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14647)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14682)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17847)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13490)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13631)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14878)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14098)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16370)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15270)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13443)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13102)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13228)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12949)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14034)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14660)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14165)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14562)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12934)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13754)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13211)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13693)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14627)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14697)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13224)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12778)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13677)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13642)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13275)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13830)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13641)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12526)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14770)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12820)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12379)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant