Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12480)
4. Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển Bốn
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng 
vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

1.4 Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

Ngày 14 tháng 11 lễ kỵ Tông chủ Hiền Thủ, là Quốc Nhất, là tạng Tổ kỵ. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma: Nam Mô Hiền Thủ Tông Chủ quốc nhất pháp sư (3 lần). Tiếp theo tụng Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai xuất hiện ra đời:

Này Phật tử, Đại Bồ Tát phải làm sao để biết Như Lai Chánh Đẳng giác nhập Niết Bàn? Này Phật tử, đại Bồ Tát muốn biết Như Lai nhập đại niết bàn cần phải biết rõ tự tánh căn bổn chân thật NHƯ là Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hư không Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp tánh Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ly dục Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hết thảy pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như chân như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Tại sao? Vì Niết Bàn không sanh không xuất. Nếu pháp không sanh, không xuất thì không có diệt.

Này Phật tử, Như Lai không vì Bồ Tát mà nói Niết Bàn rốt ráo của Như Lai cũng không vì sự thị hiện kia mà nói Niết Bàn. Tại sao? Vì muốn làm chúng sanh thấy tất cả thường trụ của Như Lai về trước, trong một niệm thấy chư Phật quá khứ, vị lai sắc tướng tròn đầy như hiện tại; cũng không khởi hai chẳng nhị tưởng. Tại sao? Vì đại Bồ Tát xa lìa hết thảy mọi chấp tướng. Này Phật tử, chư Phật Như Lai vì làm cho chúng sanh sanh tâm hân hoanxuất hiện ra đời, muốn làm cho chúng sanh có lòng luyến mộ mà hiện Niết Bàn nhưng thật Phật không có ra đời cũng không Niết Bàn. Tại sao? Vì Phật thường trụ cảnh giới thanh tịnh, tùy theo tâm chúng sanhthị hiện Niết Bàn.

Này Phật tử, ví như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, vào nơi tất cả đồ chứa nước sạch mà không hiện bóng. Này Phật tử, ý ông nghĩ sao, bóng mặt trời không hiện là mặt trời có lỗi không? 

Đáp: Không có lỗi. Chỉ do đồ chứa hư (bể) không phải lỗi ở mặt trời. Này Phật tử, trí Như Lai cũng như thế, chiếu sáng khắp pháp giới không có trước sau. Tất cả chúng sanh tâm lắng thanh tịnh, Phật hiện thân ngay; tâm tánh thường lóng trong luôn thấy Phật hiện. Nếu tâm dơ vật hỏng không thấy Phật. 

Này Phật tử, nếu có chúng sanh phải dùng Niết Bàn mà độ đó Phật hiện Niết Bàn, nhưng thật Như Lai không sanh không diệt, không có diệt độ. Này Phật tử, thí dụ như lửa cháy lớn khắp hết thế gian, ai cũng phải lo chữa cháy hoặc có nơi một lúc, lửa liền tiêu hết. Ý Ông nghĩ thế nào, tất cả lửa thế gian đều dứt hết chăng?

Đáp: Không thể dứt hết. Này Phật tử, Như lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế, trong các thế giới làm các Phật sự hoặc nơi một thế giới làm việc xong mới thị hiện Niết Bàn; đâu phải các thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ hết cả đâu! Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, nhập đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, ví như huyễn sư khéo làm trò huyễn thuật, vì lực huyễn thuật trong hết thảy mọi quốc độ ở 3000 đại thiên thế giới nào thành ấp, xóm làng hiện thân huyễn. Vì duy trì lực huyễn trải qua kiếp số mà tồn tại, nhưng nơi các xứ khác việc huyễn đã xong, huyễn sư ẩn thân không hiện. 

Này Phật tử, ý Ông nghĩ thế nào, đại huyễn sư kia đâu phải ở một nơi ẩn thân không hiện mà làm cho tất cả mọi nơi đều diệt hết sao? 

Đáp: Không phải như vậy. 

Này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế. Khéo biết vô số trí phương tiện bằng mọi huyễn thuật trong các cõi mà hiện thân khắp nơi; giữ cho luôn tồn tại đến vị lai tế hoặc ở một nơi, tùy theo tâm chúng sanh mà làm việc xong lại thị hiện Niết Bàn. Đâu có thể lấy một nơi nhập Niết Bàn mà cho là tất cả đều diệt độ. Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác lúc hiện Niết Bàn nhập bất động tam muội, khi vào tam muội này trong mỗi mỗi thân đều phóng ra vô lượng trăm nghìn ức vô số ánh sáng lớn; mỗi ánh sáng đó xuất vô số lượng hoa sen. Mỗi hoa có vô số nhụy hoa báu, mỗi nhụy hoa có một tòa sư tử. Trên mỗi tòa sư tử đều có Phật ngồi kiết già thiền định, các đức Phật phân thân vô số hợp với số chúng sanh đều đầy đủ công đức trang nghiêm. Do bổn nguyện lực phát sanh, nếu có chúng sanh thiện căn thuần thục thấy được thân Phật đều được Phật giáo hóa. Song thân Phật kia ở trong ngằn mé đời vị lai hoàn toàn an trụ tùy cơ hóa độ hết thảy chúng sanh chưa từng thôi nghỉ. Này Phật tử, thân Như lai không ở một phương sở nào, chẳng thật chẳng hư, chỉ vì bổn thệ nguyện chư Phật mới kham độ chúng sanh, bèn xuất thế. Đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác đại Niết Bàn. Này Phật tử, Như Lai trụ trong vô số pháp giới, an ổn vô ngại cõi hư không, chân như pháp tánh không sanh không diệt. Và vì thật tế, vì chúng sanh tùy lúc thị hiện để duy trì bổn nguyện không có chấm dứt; không bỏ chúng sanh, cõi nước và các pháp.

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng Tổ Đạt Ma, chỉ thay đổi lời bạch:

Cung kính nghe rằng pháp sư, theo dấu Thiên Thai tôn xưng Hiền Thủ, là Tông chủ tông Hoa Nghiêm, thành một nhà giáo quán. Nhưng một tôn chỉ ở Kỳ Châu muốn ngộ Phật thừa, giảng pháp đại thừa vào đời Đường bọn tả đạo hồi tâm. Từ đó 10 tông thành lập, 5 phái thường còn làm kim chỉ nam của ngàn sau, làm thầy dạy pháp cho muôn đời… Nay gặp ngày húy nhựt Ngài xin phụng hiến hương hoa cúng dường kỷ niệm. Lại nguyện, đèn trí sáng soi mãi mãi, ấn Tổ rạng ngời, xin gia hộ cho người sau tiếp tục duy trì tông phong lâu dài

Bạch xong, đại chúng cử tán bài:

Lành thay Hiền Thủ

Mô phạm muôn đời

Bao năm lập nguyện truyền thừa

Chí cầu pháp mạch sâu

Trước thuật mãi truyền lưu

Chớ bàn chỗ thậm huyền

Nam Mô Hiền Thủ tông chủ Quốc Nhất pháp sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông Chủ húy là Pháp Tạng, tự Hiền Thủ, Vua phong là Ích hiệu Quốc Nhất, là Tổ thứ 3 tông Hoa NghiêmĐông Độ. Ngài họ Khương, người nước Khương Cư sanh ngày mồng 2 tháng 11 năm Trinh Quán thứ 17 đời Đường, cùng với ngài Thiên Thai Trí Giả trước sau gần 200 năm, chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có 1 phẩm là Hiền Thủ, lại là trong 10 vị Bồ Tát có một vị tên Hiền Thủ. Nên lấy 2 chữ Hiền Thủ đặt pháp tự; cũng như lấy chữ này thành lập tông. Cũng giống lập giáo quán tông Thiên Thai có chỗ đại đồng tiểu dị. Phần Kinh tụng ở trên, phẩm Như Lai xuất hiện chương Niết Bàn, lấy lời dạy chính của Phật thành lập tông, mà nay việc cúng giỗ thích nghi vậy. Tông Thiên Thai dùng Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Lượng cũng là ý này. Về sau ngày giỗ kỵ tụng Kinh phần nhiều tụng Tâm Kinh, chú vãng sanh hoặc tụng Kinh A Di Đà, nếu cúng trước linh của người thế tục. Như các bậc Tổ Sư cao tăng sớm đã ra khỏi 3 cõi đâu có như phàm phu mà cầu siêu độ ư? Cho nên đối với chư Tổ mỗi vị tùy theo tông pháitụng niệm cho thích hợp. Như Tổ Thiền Đạt Ma ở trước tụng 108 câu Kinh Lăng Già, lấy tâm ấn thiền tông, không như 108 câu ở đây. Tổ Bách Trượng ở trước tụng phẩm Phạm Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm lấy chỗ giống với Thanh Quy. Lại như Đạo Tuyên luật sư tụng bài kệ Kinh Phạm Võng; Liên Xã Tổ Huệ Viễn tụng chương Đại Thế Chí. Ngăn các môn phái không đặt lẫn lộn cho con cháu, dễ nắm rõ mỗi tông về tôn chỉ riêng mà sự linh hiển của chư Tổ cũng gia tăng theo sự yêu thích riêng. Ý nghĩa chung không đặt thẳng thừng, theo danh tham khảo thích hợp cơ nghi. Tuy mới bổ túc cho lớp sau, nhưng cúng chư Tổ cũng phải giữ nguyên kế tục như trước như mỗi phái đã có quy định.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33246)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6548)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11287)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30405)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30437)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7985)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12201)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12262)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11608)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12836)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34788)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9848)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52272)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10753)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10532)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10718)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10474)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13086)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16291)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21851)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9623)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7128)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10398)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12763)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12798)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16236)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16538)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13871)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16598)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12133)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13826)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14331)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9216)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11761)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11281)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16329)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14346)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16194)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12699)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12083)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11798)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15669)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11517)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14021)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12018)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12625)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15000)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11964)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13135)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14562)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20726)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13239)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10966)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20713)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14369)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20399)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17665)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14024)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31861)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12020)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant