Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Húy Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12483)
6. Húy Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển Bốn
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng 
vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

1.6 Húy Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư

Ngày mồng 6 tháng 8 là lễ giỗ Tịnh Độ tông chủ Huệ Viễn lão Tổ. Giống như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết cử tán:

Nam Mô Liên Tông Sơ Tổ Huệ Viễn Tổ Sư (3 lạy).

Tiếp theo tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm - Đại Phật đảnh Như Lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa chư Bồ Tát vạn hạnh - Đại Thế Chí con đấng Pháp Vương cùng 52 Bồ Tát đồng hàng từ tòa ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: bạch đức Thế Tôn, con nhớ trong quá khứ vô số kiếp về trước có đức Phật xuất thế hiệu là Vô Lượng Quang với 12 đức Như Lai kế tục trong một kiếp. Đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang, vị Phật ấy dạy niệm Phật tam muội. Như có một người chuyên tâm nhớ nghĩ, còn một người ưa quên, 2 người ấy, nếu có gặp nhau cũng như không gặp, hoặc có thấy mà như chẳng thấy nhau. Còn nếu cả hai người cùng nhớ nghĩ và cả 2 nghĩ sâu sắc, như thế từ kiếp này sang kiếp khác như bóng theo hình không thể rời nhau. Mười phương chư Phật thương nghĩ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con có mất đi, mẹ nghĩ không biết con đang làm gì. Lúc con nhớ mẹ, mẹ nhớ con; mẹ con dù sanh ở đâu không phải là quá xa cách. Cũng như tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phậthiện tại hay trong tương lai, quyết định thấy Phật, cách Phật không xa. Không mượn phương tiện tâm tự khai ngộ, như người xoa nước hoa, thân thoảng mùi thơm. Đây gọi là hương thơm trang sức. Nhân gốc của ta là dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này, người nhiếp tâm niệm Phật sanh về Tịnh Độ.

Phật bảo Bồ Tát Viên Thông: Ta không chọn lựa mà đều giữ gìn 6 căn tịnh niệm liên tục đạt được tam ma địa (đại định) đây là đệ nhứt.

Tiếp tụng chú vãng sanh 3 lần, niệm Phật 108 hiệu. Kế tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường. Duy Na quỳ gối chấp tay bạch rằng:

Cung kính nghe rằng tịnh nghiệp Tông Chủ tên thậtViễn Công, hiện dấu tích còn tại Nhạn Môn, mở pháp xây nền thống nhất 123 người cùng một ý sanh Tây phương. Duy chọn ngày 28 tháng 7 là ngày hiệp kỵ tại Đông Lâm Xã mà thiên hạ tôn ngưỡng phong cách cao vời của các Ngài. Giáo thuyết Tây phương mãi mãi thơm hương, muôn đời thấm nhuận hồng ân. Nay là ngày tốt sen đang đua nở, chúng con chí thành dâng nén tâm hương cúng dường tưởng niệm.

Lại nguyện, không quên bổn thệ theo Đức Di Đà dẫn dắt thuyền từ độ khắp, đưa rước chúng sanh về nơi an dưỡng quốc.

Tiếp theo cử tán:

Đại nguyện thứ nhất, quán tưởng Di Đà

Bốn mươi tám nguyện độ Ta Bà

Chín phẩm hiện liên hoa

Lưới vàng giăng bủa khắp

Cứu chúng sanh vượt ái hà (sông ái).

Nam Mô Tịnh Nghiệp tông chủ Viễn Công Tổ Sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông chủ ghi trong các liệt truyện: xuất Cao Tăng Truyện quyển 6, ở đây không nêu ra hết. Dâng cúng tụng phẩm Đại Thế Chí chương niệm Phật Viên Thông. Lấy chương này khai thị rất là chánh đáng. Ngài U Khê giải thích rằng, niệm Phật tam muội là người niệm Phật đem tâm duyên với Phật, lấy Phật buộc tâm; tâm tâm tương tục không hề gián đoạn. Lúc đó một tâm không khởi, ngoại cảnh không xâm. Tự quay trở lại ban đầu hoàn toàn đảo ngược. Đúng không thọ những gì phải thọ mà được sao? Thọ đúng nên gọi là niệm Phật tam muội. Trước nêu ra thí dụ: như một người chuyên nhớ nghĩ, ví như Phật nghĩ tới chúng sanh, làm thế nào cứu ra khỏi 3 cõi. Một người ưa quên, dụ chúng sanh chỉ vì tham 5 trần cảnh mà chịu khổ trong 6 đường. Giữa 2 người đó dù gặp nhau cũng như không gặp; có thấy nhau cũng như không thấy. Cũng như Phật luôn thấy chúng sanhchúng sanh thường không gặp thấy Phật. Thí dụ này cho thấy chúng sanh bỏ mất không niệm Phật. Hai người nhớ nhau, dụ như khi Phật nhớ chúng sanh, chúng sanh lúc đó cũng nhớ Phật mới gọi là 2 bên nhớ nghĩ sâu. Nên niệm nghĩ như thế thì đời đời thường thấy Phật, nơi mỗi quốc độ thấy được Như Lai. Nên nói rằng, như thế cho đến từ đời này sang kiếp khác giống như bóng với hình không lìa nhau. Kế tiếp thí dụ người mẹ và đứa con là đúng nhất. Như Lai thương nghĩ chúng sanh như mẹ nhớ con, hợp nhau ở điểm chuyên nhớ nghĩ. Như con có chết mẹ nghĩ không biết con đang làm gì. Hoặc giả như một người ưa quên, đây dụ cho người bỏ mất không niệm Phật. Kế đến người chuyên niệm Phật, như con nhớ mẹ. Chỉ cách để nhớ mẹ đang lúc mẹ nhớ con. Người niệm Phật dùng công phu miên mật không một khắc nghĩ tới 5 món dục thế trần đây gọi là buộc niệm, mới gọi được là như lúc mẹ nhớ con. Mẹ con dù ở đâu cũng không xa cách nhau vậy. Lại nhớ Phật là luôn niệm nghĩ tưởng; niệm Phậttâm chú ý một cảnh thì trong hiện tại và tương lai quyết định thấy Phật. Trước mắt như Ngài Viễn Công, thấy 3 loại Thánh tướng, tương lai là lúc lâm chung được Phật tới rước, cho đến như hoa nở thấy Phật, cách Phật không xa, vì người niệm Phật không chỉ thấy Phật mà cũng thấy gần Phật, chẳng lâu sau chắc chắn thành Phật. Không mượn phương tiện tự tâm đạt khai ngộ, có nghĩa tự cất tiếng niệm, là duyên với cảnh Phật. Sự lý viên dung, năng-sở dứt đối đãi, có nghĩa ta là nhân chính dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nếu không như thế cũng khó chứng ngộ vô sanh. Không mượn phương tiện là tin không sai, như người xức nước hoa, dụ chúng sanh vốn không phải Phật, nhân niệm Phật mà có hương thơm của Phật gọi là hương trang sức. Phật tròn đầy do niệm Phậthiển bày; niệm nhờ Phật mà huân sâu. Có nghĩa lấy hương pháp thân chư Phật mà trang sức chăng? Sắc thân chúng sanh vốn nhân 3 câu: Kết tự hành nhân quả tương ứng nay ở cõi này có 3 câu mà quả ấy về sau lợi người, lấy đó làm tự độ. Lấy đây dạy người cũng như lấy lực này mà nhiếp hóa chúng sanh. Ta không chọn lựa mà đều thu nhiếp 6 căn. Niệm thuộc về ý căn nên nhận biết, tu tập cũng đều thâm nhiếp các căn, căn căn niệm Phật vậy. Ý căn nếu thanh tịnh hẳn các căn đều thu nhiếp cho nên nói không chọn lựa là vậy. Trong thời gian hành trì chỉ niệm Phật Di Đà, và cầu sanh Tịnh Độ, niệm không gián đoạn, tức niệm thanh tịnh liên tục. Niệm Phật theo phương pháp đó thật là vượt hơn các pháp môn khác, nên nói rằng nhập tam ma địa, là như vậy.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14765)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11830)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10348)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11087)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10540)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12476)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14314)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11790)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14809)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12031)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11589)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12738)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11347)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12061)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52133)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13969)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11443)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13185)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12789)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17916)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54212)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14431)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57978)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14505)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20144)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13792)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15405)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17496)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13490)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14672)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12493)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12157)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13291)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12543)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13660)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25601)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12180)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11864)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28349)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38809)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14724)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16241)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant