Bách
Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ
Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ
Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành
vào đời Thanh.
Chương 5: Trụ Trì
Chứng nghĩa ghi rằng: Xưa ở Phần Dương, Chiêu Thiền Sư ở viện Thái Tử tại Phần Châu, vì một phần đất sông Phần quá lạnh nên bỏ tham vấn tối. Có một tỳ kheo lạ chống tích trượng đi tới gọi Sư hỏi:
- Trong chúng hội đại sĩ có 6 người, tại sao không thuyết pháp?
Nói xong lẫn vào hư không mà biến mất. Có để lại Sư bài mật kệ, ghi rằng:
Hồ tăng cầm tích trượng vàng
Vì pháp đến đất Phần Dương
Sáu người là bậc Đại sĩ
Khuyến thỉnh vì pháp tuyên dương.
Lúc bấy giờ Sở Viên giữ vườn hiệu Thượng Thủ mà Sở Viên từ là Từ Minh. Về sau có một thời ở Thạch Sương, là Giám tự Hội Công tại Dương Kỳ, chúng mời thuyết pháp ban đêm. Từ Minh nói rằng;
- Tối mà thăng tòa, quy tắc này từ đâu có?
Hội chúng đáp:
- Phần Châu tham vấn tối, không phải là mực thước sao?
Từ Minh lãnh hội được ý.
1.3.2 Phụ: Trà Đàm – Ngày Rằm, Mồng Một
Mỗi
tháng 14 và 30 cạo tóc, sám hối, mặc y phục sạch sẽ. Sau
giờ ngọ trai, có chỉ tịnh (nghỉ ngơi), tắm rửa. Buổi
chiều, giờ học xong, dùng dược thạch. Đại chúng nghe hiệu
lệnh y hậu chỉnh tề lên Tổ đường lễ Tổ, vào chánh
điện lạy sám hối hồng danh. Sau khi sám hối xong đại chúng
lui ra giải y, chờ có hiệu lệnh vào Thiền đường hoặc
trai đường dự buổi trà đàm hay tiểu tham. Qui tắc buổi
tiểu tham như sau: Hòa Thượng Phương Trượng mời 2 liêu chúng
tham gia: một bên quán sát hỏi chỗ kiến giải; bên kia bình
luận công việc thường trụ (y luật kỳ Bố Tát vào 2 ngày
này).
1.3.3 Lễ Thù Ân Vào Sáng Rằm, Mồng Một
Sau
thời Kinh Lăng Nghiêm, tới thượng lai hiện tiền… đảnh
lễ Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, ân Thầy, cha mẹ, thí chủ, quốc
vương, những người làm công quả, chư vị thiên thần giữ
gìn ủng hộ già lam v.v…
1.3.4 Vào Thất Thỉnh Giáo
Mỗi
tháng các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23 và 28 là những ngày Hòa
Thượng Phương Trượng treo bảng nhập thất. Nhập thất có
nghĩa là người kham nhẫn chuyên tu học đạo. Văn sách người
ấy chưa đạt đến, điều chánh bị tà chấp, như lò luyện
kim, bao nhiêu quặng, chất chì lọc sạch không còn lưu lại
gì. Người ngọc sánh với ngọc, đá ngọc bỏ hết không
nệ tối sáng, không chọn nơi chốn ở đâu cũng có thể thực
hành được. Người học vào thất thỉnh giáo phải thành
tâm, đắp y tề chỉnh mang theo tọa cụ. Trước phải thưa
cho Thầy Trụ Trì biết để Thầy ấy cho người dẫn tới
thất Hòa Thượng. Người hướng dẫn thường là thị giả,
thị giả đứng trước cửa khảy ngón tay 3 lần hay bấm chuông
3 lượt. Ngài Hòa Thượng mở cửa, xá chào rồi đưa người
tham vấn vào, lạy 3 lạy quỳ gối chấp tay cầu xin khai đạo
nói:
- Kính bạch Hòa Thượng, con tự nghĩ suốt đời tham học chưa tỏ ngộ được hết, chưa khám phá được một tơ hào chỗ bí tàng, chưa đủ hiểu biết cái vọng chấp của tự thân, ngang tạo dị thuyết, múa may quay cuồng.
Hòa Thượng đương nhiên sẵn từ tâm xót xa nghe đệ tử như kim châm vào mình. Ngài đề cập gìn giữ duy trì sự tiến bộ là điều trước nhất. Hòa Thượng khai thị xong, đứng lên lạy tạ rồi lui ra; theo thị giả về phòng khách không nên tự ý không theo khuôn khổ. Không để thì giờ trống không mà cô phụ chí phát tâm xuất gia ban đầu.
Chứng nghĩa ghi rằng: Việc nhập thất, là người có học nên thật thận trọng thỉnh giáo. Vị Thầy nhập thất nên tận tâm chỉ bày để không phụ người hỏi. Nếu người học tham vấn không thật tâm, vị thầy đạo nhãn thiếu sáng suốt nào có khác chi nương hình dáng vẽ mèo, chỉ phỏng dựa đáp ứng sự tích xưa mà thôi. Thời gian gần đây các Ngài trừ một vài vị chân tu ở thiền lâm, chuyên việc nhập thất ra, đa số thiếu hành, thật là đáng tiếc thay.
1.3.5 Đi Tuần Liêu
Theo
Thanh Quy cổ mỗi tháng ngày mồng 3 và 28 chùa tụng Kinh Nhân
Vương. Một năm bốn dịp đi tuần liêu. Trước tăng xá dán
bảng tuần liêu, thông báo để chúng các liêu biết. Chuẩn
bị hương đèn, trà nước, chúng nghe hiệu mộc bảng tập
trung trước liêu, đợi Thầy Trụ Trì đến cùng đi vào các
liêu. Liêu trưởng đốt nhang đưa cho Thầy Trụ Trì niệm,
xong toàn chúng đều xá xuống 3 lần. Tất cả cùng ngồi xuống
hỏi thăm nhau về sức khỏe, việc học hành, ăn uống, tu
tập, kiểm điểm việc thiếu đủ ra sao; mỗi việc Trưởng
Liêu cứ tình thiệt trình bày để chùa bổ túc, cải thiện,
nếu việc bất cập. Xong rồi chúng đứng lên tiển Thầy
Trụ Trì lui về. Cũng có thể tuần liêu vào 2 ngày Rằm và
Mồng Một không cần treo bảng. Ngày nay tuần liêu tháng 4
lần, ngày mồng 3 và mồng 8 tụng Kinh cũng không làm. Mỗi
khi gặp ngày Rằm, Mồng Một lễ thù ân chúc Thánh có nơi
thay vào tụng Kinh; nói chi việc tuần liêu, Trụ Trì mỗi ngày
sáng chiều 2 thời khóa tụng, lúc lạy Phật đi chung quanh
lạy các thánh tượng, tùy nghi đi tới các liêu hỏi thăm
huynh đệ, kiểm điểm việc chùa viện…
Chứng nghĩa ghi: Luật Tăng Kỳ ghi rằng; Thế Tôn lấy 5 việc, thường nên 5 ngày một lần đi tuần các tăng phòng vì:
1- Sợ đệ tử đắm việc đời
2- Sợ mắc vướng luận bàn thế tục
3- Sợ đắm mê ngủ
4- Vì để xem xét chúng bịnh
5- Làm cho các tỳ kheo nhỏ tuổi quán oai nghi Phật, sanh lòng hoan hỷ.
Ngày nay vị Trụ Trì tuân lời Phật cũng đi tuần các liêu chúng như vậy. Đó là lý do đi tuần liêu mỗi tháng 4 kỳ.
1.3.6 Giữa chúngNghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.
Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:
Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,
Viên dung vô ngại khó thể so lường,
Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,
Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:
Cửa trời im ỉm chẳng mở thông
Ngày đêm thê thiết nổi gió giông
Trừ dứt tai ương dân ước nguyện
Hợp thời hé lộ một vừng hồng
Là một trong bốn châu thiên hạ
Châu Nam Thiệm người người chờ mông.
Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.
Lại nguyện:
Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu
Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên
Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh
Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên
Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên
Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.
Ngày…tháng…năm... Phật lịch...
Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.
Duy Na cử bài tán:
Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,
Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,
Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,
Khắp nơi rải sáng an lành,
Vạn vật vui đón bình minh.
Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).
Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)
Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.
Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.
Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.