Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

3. Phần phụ: 5 cách tham vấn

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12098)
3. Phần phụ: 5 cách tham vấn

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.3 Phần phụ: 5 cách tham vấn
1.3.1 Tham Vấn Tối - Tiểu Tham
Công việc hằng ngày của Trụ Trìhoằng pháp, trừ ngoài giờ thượng đường ra, ngày rằm giữ theo lệ thuyết pháp hẳn việc này không thể lơ là buông lõng được. Nếu tham vấn lúc thuyết pháp, hai dãy ghế ngồi bên dưới chúng đứng lên. Thầy Trụ Trì đăng tòa (vào chỗ ngồi) trước khi ngồi phải lạy Phật, để chúng tham chiếu học theo. Phàm nhóm chúng khai thị đều phải tham cứu cổ nhân. Khuôn rập theo khiến chúng sớm tối không buông lung; không phải thời mà chẳng kích bác đạo. Mỗi tối phải có thời tham vấn riêng gọi là tham vấn tối, hoặc sáng sau khóa lễ, chúng tới phòng Hòa Thượng Phương Trượng tham vấn. Nghi thức giống như thượng đường, gọi là tiểu tham. Ngoài ra, gặp khi an cư, giải hạ, đêm đông, tiết đông, đối trước chư linh v.v.. đều nói tiểu tham (một bài khai thị ngắn gọn, ý nghĩa sâu sắc). Mới đầu không định nơi chốn, mà xem số chúng nhiều ít, hoặc tại phòng Ngài Phương Trượng, hoặc tập trung nơi giảng đường, trước trai đường v.v.. chuẩn bị cuộc tiểu tham. Hoặc tại chánh điện, quét dọn sạch sẽ chúng cùng ngồi dưới đất hoặc trải tọa cụ, xong đâu đó một vị đi mời Hòa Thượng hoặc một vị pháp sư đăng tòa ban lời khai thị. Chúng nêu nghi vấn những gì không hiểu để Thầy giải đáp về việc tu tập, công phu, bái sám, việc chùa, việc chúng v.v…

Chứng nghĩa ghi rằng: Xưa ở Phần Dương, Chiêu Thiền Sư ở viện Thái Tử tại Phần Châu, vì một phần đất sông Phần quá lạnh nên bỏ tham vấn tối. Có một tỳ kheo lạ chống tích trượng đi tới gọi Sư hỏi:

- Trong chúng hội đại sĩ có 6 người, tại sao không thuyết pháp?

Nói xong lẫn vào hư không mà biến mất. Có để lại Sư bài mật kệ, ghi rằng:

Hồ tăng cầm tích trượng vàng

Vì pháp đến đất Phần Dương

Sáu người là bậc Đại sĩ

Khuyến thỉnh vì pháp tuyên dương.

Lúc bấy giờ Sở Viên giữ vườn hiệu Thượng ThủSở Viên từ là Từ Minh. Về sau có một thời ở Thạch Sương, là Giám tự Hội Công tại Dương Kỳ, chúng mời thuyết pháp ban đêm. Từ Minh nói rằng;

- Tối mà thăng tòa, quy tắc này từ đâu có?

Hội chúng đáp:

Phần Châu tham vấn tối, không phải là mực thước sao?

Từ Minh lãnh hội được ý.

1.3.2 Phụ: Trà Đàm – Ngày Rằm, Mồng Một
Mỗi tháng 14 và 30 cạo tóc, sám hối, mặc y phục sạch sẽ. Sau giờ ngọ trai, có chỉ tịnh (nghỉ ngơi), tắm rửa. Buổi chiều, giờ học xong, dùng dược thạch. Đại chúng nghe hiệu lệnh y hậu chỉnh tề lên Tổ đường lễ Tổ, vào chánh điện lạy sám hối hồng danh. Sau khi sám hối xong đại chúng lui ra giải y, chờ có hiệu lệnh vào Thiền đường hoặc trai đường dự buổi trà đàm hay tiểu tham. Qui tắc buổi tiểu tham như sau: Hòa Thượng Phương Trượng mời 2 liêu chúng tham gia: một bên quán sát hỏi chỗ kiến giải; bên kia bình luận công việc thường trụ (y luật kỳ Bố Tát vào 2 ngày này).

1.3.3 Lễ Thù Ân Vào Sáng Rằm, Mồng Một
Sau thời Kinh Lăng Nghiêm, tới thượng lai hiện tiền… đảnh lễ Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, ân Thầy, cha mẹ, thí chủ, quốc vương, những người làm công quả, chư vị thiên thần giữ gìn ủng hộ già lam v.v…

1.3.4 Vào Thất Thỉnh Giáo
Mỗi tháng các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23 và 28 là những ngày Hòa Thượng Phương Trượng treo bảng nhập thất. Nhập thất có nghĩa là người kham nhẫn chuyên tu học đạo. Văn sách người ấy chưa đạt đến, điều chánh bị tà chấp, như lò luyện kim, bao nhiêu quặng, chất chì lọc sạch không còn lưu lại gì. Người ngọc sánh với ngọc, đá ngọc bỏ hết không nệ tối sáng, không chọn nơi chốn ở đâu cũng có thể thực hành được. Người học vào thất thỉnh giáo phải thành tâm, đắp y tề chỉnh mang theo tọa cụ. Trước phải thưa cho Thầy Trụ Trì biết để Thầy ấy cho người dẫn tới thất Hòa Thượng. Người hướng dẫn thường là thị giả, thị giả đứng trước cửa khảy ngón tay 3 lần hay bấm chuông 3 lượt. Ngài Hòa Thượng mở cửa, xá chào rồi đưa người tham vấn vào, lạy 3 lạy quỳ gối chấp tay cầu xin khai đạo nói:

- Kính bạch Hòa Thượng, con tự nghĩ suốt đời tham học chưa tỏ ngộ được hết, chưa khám phá được một tơ hào chỗ bí tàng, chưa đủ hiểu biết cái vọng chấp của tự thân, ngang tạo dị thuyết, múa may quay cuồng.

Hòa Thượng đương nhiên sẵn từ tâm xót xa nghe đệ tử như kim châm vào mình. Ngài đề cập gìn giữ duy trì sự tiến bộ là điều trước nhất. Hòa Thượng khai thị xong, đứng lên lạy tạ rồi lui ra; theo thị giả về phòng khách không nên tự ý không theo khuôn khổ. Không để thì giờ trống không mà cô phụ chí phát tâm xuất gia ban đầu.

Chứng nghĩa ghi rằng: Việc nhập thất, là người có học nên thật thận trọng thỉnh giáo. Vị Thầy nhập thất nên tận tâm chỉ bày để không phụ người hỏi. Nếu người học tham vấn không thật tâm, vị thầy đạo nhãn thiếu sáng suốt nào có khác chi nương hình dáng vẽ mèo, chỉ phỏng dựa đáp ứng sự tích xưa mà thôi. Thời gian gần đây các Ngài trừ một vài vị chân tuthiền lâm, chuyên việc nhập thất ra, đa số thiếu hành, thật là đáng tiếc thay.

1.3.5 Đi Tuần Liêu
Theo Thanh Quy cổ mỗi tháng ngày mồng 3 và 28 chùa tụng Kinh Nhân Vương. Một năm bốn dịp đi tuần liêu. Trước tăng xá dán bảng tuần liêu, thông báo để chúng các liêu biết. Chuẩn bị hương đèn, trà nước, chúng nghe hiệu mộc bảng tập trung trước liêu, đợi Thầy Trụ Trì đến cùng đi vào các liêu. Liêu trưởng đốt nhang đưa cho Thầy Trụ Trì niệm, xong toàn chúng đều xá xuống 3 lần. Tất cả cùng ngồi xuống hỏi thăm nhau về sức khỏe, việc học hành, ăn uống, tu tập, kiểm điểm việc thiếu đủ ra sao; mỗi việc Trưởng Liêu cứ tình thiệt trình bày để chùa bổ túc, cải thiện, nếu việc bất cập. Xong rồi chúng đứng lên tiển Thầy Trụ Trì lui về. Cũng có thể tuần liêu vào 2 ngày Rằm và Mồng Một không cần treo bảng. Ngày nay tuần liêu tháng 4 lần, ngày mồng 3 và mồng 8 tụng Kinh cũng không làm. Mỗi khi gặp ngày Rằm, Mồng Một lễ thù ân chúc Thánh có nơi thay vào tụng Kinh; nói chi việc tuần liêu, Trụ Trì mỗi ngày sáng chiều 2 thời khóa tụng, lúc lạy Phật đi chung quanh lạy các thánh tượng, tùy nghi đi tới các liêu hỏi thăm huynh đệ, kiểm điểm việc chùa viện…

Chứng nghĩa ghi: Luật Tăng Kỳ ghi rằng; Thế Tôn lấy 5 việc, thường nên 5 ngày một lần đi tuần các tăng phòng vì:

1- Sợ đệ tử đắm việc đời

2- Sợ mắc vướng luận bàn thế tục

3- Sợ đắm mê ngủ

4- Vì để xem xét chúng bịnh

5- Làm cho các tỳ kheo nhỏ tuổi quán oai nghi Phật, sanh lòng hoan hỷ.

Ngày nay vị Trụ Trì tuân lời Phật cũng đi tuần các liêu chúng như vậy. Đó là lý do đi tuần liêu mỗi tháng 4 kỳ.

1.3.6 Giữa chúng
Nói công khai là nghi cách khởi sự dừng lại cùng với tiểu tham, tương tự gần giống tiểu tham. Chỉ có Trụ Trì nói lời khai thị ngay tại thiền đường; trong khi nói công khai có nhiều loại không giống nhau. Như Trụ Trì nói, hoặc cáo hương, hoặc thông báo trước khi kiết hạ, giữa hạ, hay làm một Phật sựđặc biệt. Hoặc nhân thỉnh khai thị, hay cầu thầy giải quyết nghi vấn, vì hành giả mà thuyết, hoặc cảnh sách để khuyên bảo hành giả, hoặc khích lệ đạo đức cổ nhân… Vì lời văn dài ý nghĩa đầy đủ nên gọi là nói rộng (hay công khai). Bắt buộc hoặc ra lệnh khiến mọi người đều phải nói, tùy theo lời của họ mà bàn luận. Dùng giấy bút viết thành câu văn thật đàng hoàng nghiêm chỉnh ghi lại những ý chính quan trọng.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13662)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25319)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13734)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15039)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17613)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17071)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14152)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13143)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19662)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16710)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18558)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18991)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18801)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21112)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14759)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39118)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14380)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19302)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14662)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16085)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14637)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15181)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14869)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15498)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39043)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24463)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14338)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19416)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17955)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21413)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19646)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17460)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14783)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13858)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14063)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21868)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16705)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15196)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14504)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14015)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14320)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15606)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14283)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14966)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18513)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24614)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23066)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28470)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15040)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14083)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14585)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18247)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26447)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15151)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14799)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15153)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15100)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant