Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

29. Phóng Sanh

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12843)
29. Phóng Sanh

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.29 Phóng Sanh
Sanh mạng con gì bắt được cũng phải thả đi không nên giam nhốt, sợ bị hại đến mạng sống chúng. Nên đặt bàn ngoài trời để làm lễ phóng sanh, có nước tịnh, cành dương, thủ xích… Pháp sư, thí chủ làm lễ, đại chúng đem mắt từ nhìn chúng khác loại, nghĩ thương xót cho kiếp sống trầm luân trải qua nhiều lần đọa lạc. Lại nghĩ Tam Bảo có đại oai lực hay bạt sạch sanh tử. Quán tưởng như thế xong, pháp sư cầm thủ lư lên đọc:

Chí tâm phụng thỉnh trên hội quang minh Chư Phật, Bồ Tát, 10 phương từ phụ, Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại linh cảm, thiên long thần kỳ tại đạo tràng này gia trì cho nước tịnh thủy này đủ công đức dày rưới khô muôn loại, khiến thân tâm họ thanh tịnh, nhẫn nghe diệu pháp.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Chúng hòa theo. Tiếp tụng chú Đại Bi (3 biến), pháp sư cầm thủ lư niệm hương:

Ngưỡng bạch 10 phương Tam Bảo, Thích Ca bổn sư, Từ phụ Di Đà, Bảo Thắng Như Lai, Quan Âm Bồ Tát, cha con trưởng giả Lưu Thủy, Thiên Thai, Vĩnh Minh, các bậc đại sĩ v.v..

Ngưỡng nguyện: đức từ bi chứng tri hộ niệm, nay có các chúng sanh bị người bắt nhốt sắp đưa vào cửa tử, may gặp được…(tên người phóng sanh) tu hạnh Bồ Tát phát tâm từ bi, gieo nhân trường thọ tạo việc phóng sanh, cứu thân mạng của những con… này thả chúng ung dung tự tại.

Tỳ kheo… bèn theo Kinh Đại Thừa Phương Đẳng truyền Tam Quy, niệm 10 hiệu Phật. Lại cũng vì các chúng sanh này mà nói pháp 12 nhân duyên chỉ vì các chúng sanh này tội chướng sâu dày thần thức hôn mê. Ngưỡng cầu Tam Bảo oai đức gia bị thương xót chở che. Pháp sư đập thủ xích một cái, rồi cất tiếng thuyết 3 quy y:

Hiện giờ các chúng sanh quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng

Nói xong 3 lần, đại chúng cùng hòa theo:

Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi; từ nay trở đi tôn Phật làm thầy, không quy y tà ma ngoại đạo, tôn Pháp là thầy không quy y kinh điển của ngoại đạo, tôn Tăng là thầy bèn không quy y bọn đảng xấu ác. Này các Phật tử, đã quy y Tam Bảo rồi, nay tôi vì các ngươi mà niệm: Nam Mô Bảo Thắng Như Lai, 10 hiệu công đức khiến các ngươi được nghe như những con cá (bơi) chim (bay) tự do liền được sanh lên cõi trời không khác.

Nam Mô quá khứ Bảo Thắng Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.

Pháp sư đập thủ xích một cái rồi nói:

Các Phật tử, nay tôi vì các ngươi mà nói 12 nhân duyên tướng sanh tướng diệt cho các ngươi hiểu pháp sanh diệt; ngộ bất sanh diệt đồng như chư Phật chứng ngộ Niết Bàn. Bởi vì do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, buồn thương, khổ não v.v.. vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệtlão tử, buồn thương, khổ não diệt. Nói xong, pháp sư vỗ thủ xích một cái rồi nói:

Này chư Phật tử, nay tôi dựa Kinh Đại Thừa truyền cho các ngươi 3 quy y, 10 hiệu Phật, 12 nhân duyên đã xong. Nay vì các ngươi đối trước Tam Bảo, phát lồ sám hối tội khiên cầu xin sám hối. Mong cho nghiệp tội các ngươi hết thảy đều được tiêu trừ được sanh vào xứ lành, gần Phật nghe pháp. Các ngươi phải chí tâm theo tôi mà sám hối

Con xưa lỡ tạo các ác nghiệp

đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý mà sanh ra, 

hết thảy con nay xin sám hối

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Bưng chén nước chú nguyện rảy lên những con vật sắp được thả, rồi mở cửa lồng cho chim (thú) bay ra. Pháp sư trở lại đọc:

Ngưỡng mong từ ngày được thả hôm nay trở về sau, hoàn toàn các ngươi không gặp ác ma nhai nuốt, lưới sập bẩy giăng, mà thong dong tự tại mãi mãi lâu dài. Nương lực Tam Bảo, Bảo Thắng Như Lai, từ lực bổn nguyện mà sau khi chết được sanh cõi trời Đao Lợi, hoặc sanh làm người, giữ giới tu hành, không tạo ác trở lại nữa. Tin tưởng niệm Phật, tùy nguyện vãng sanh. Lại cầu nguyện thí chủ… hiện đời được như ý, qua đời khác báo ứng tùy tâm Bồ Đề hạnh nguyện, niệm niệm càng sáng cứu khổ chúng sanh được như tâm nguyện. Do nhân duyên đó được sanh cõi Cực Lạc thấy Phật A Di Đàchư Thánh chúng, chứng được vô sanh nhẫn. Phân thân vô số độ khắp hữu tình đều thành chánh giác; Nay đại chúng đồng thanh niệm Kinh Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng, thần chú vãng sanh Tịnh Độ.

Đọc xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ, đại chúng đồng tụng:

Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng tùy thuận thiện căn thật kiên cố, xin hồi hướng chư Phật tử… đại Bồ Tát làm đại quốc vương, đối với pháp được tự tại, thực hành sâu rộng lời giáo huấn làm dứt trừ nghiệp sát. Trong cõi Diêm Phù Đề[6] thành ấp, xóm làng hết thảy kẻ sát sanh đều bị cấm ngăn. Chúng sanh không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, những loại sanh thân đều ban cho điều không sợ sệt; không dục xâm chiếm tâm, rộng tu các hạnh Bồ Tát, nhân từ lợi vật, không làm xâm tổn. Phát tâm trân quí để làm an ổn chúng sanh ở các cõi Phật. Lập chí sâu bền thường tu 3 môn tịnh giới và cũng làm cho chúng sanh an trụ như vậy. Các đại Bồ Tát khiến chúng sanh tu giữ 5 giới trừ dứt hẳn nghiệp sát. Đem thiện căn này hồi hướng cho hết thảy nghĩa là nguyện cho khắp mọi loài chúng sanh phát tâm Bồ Đề đầy đủ trí huệ, bảo vệ thọ mạng lâu dài không chấm dứt. Nguyện hết thảy chúng sanh trong vô lượng kiếp cùng với chư Phật cùng khuyên nhau tu học, làm tăng thêm thọ mạng. Nguyện khắp chúng sanh tu hành nghiêm túc xa lìa sanh tử, hết thảy hiểm nạn, không làm hại đến thân mạng kẻ khác. Nguyện tất cả chúng sanh được thành tựu mọi điều không bịnh, tổn hại thọ mạng tự tại đều được tùy tâm... Nguyện hết thảy chúng sanh được thọ mạng không cùng tận tới kiếp vị lai, nương hạnh Bồ Tát điều phục giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh vì việc thọ mạng, đầy đủ thiện căn trong 10 lực tăng trưởng. Nguyện cho chúng sanh căn lành đầy đủ được thọ mạng vô tận thành tựu đại nguyện. Nguyện hết thảy chúng sanh được thấy chư Phật vâng phụng cúng dường tu tập thiện căn thọ mạng vô lượng. Nguyện cho khắp hết chúng sanhcõi Phật khéo học những pháp cần học, đạt được pháp an lạc thọ mạng vô cùng. Nguyện tất cả chúng sanh được không bịnh, không già, thường trong mạng căn tinh tấn dũng mãnh, nhập Phật trí tuệ. Đó là Bồ Tát ma ha tát trong 3 tụ tịnh giới dứt hẳn nghiệp sát hồi hướng thiện căn để làm cho chúng sanh đạt được 10 lực của Phật, trí tuệ viên mãn.

Tiếp tụng chú Vãng Sanh (3 lần) và Duy Na đọc:

Trở lên công đức phóng sanh để đền đáp 4 ân, 3 cõi đều nhờ. Pháp giới chúng sanh đều trọn thành chủng trí. 10 phương 3 đời chư Phật, hết thảy chư đại Bồ Tát, đạt đại bát nhã ba la mật

Tụng hồi hướng, 3 tự quy y. Bên trên là lược nghi thức phóng sanh xong. Nếu lễ phóng sanh mà có thêm tụng kinh hoặc cúng dường trai phạn v.v.. đều xem nghi thức trước, chỉ có phần hồi hướng và sớ văn thay đổi theo việc cầu nguyện của thí chủ.

Chứng nghĩa ghi rằng, nghi phóng sanh đời Lương dịch từ Kinh Kim Cang Minh như thế. Nếu căn cứ 2 bản dịch đời Tùy-Đường đều có lời chú Kinh Phạm Võng cũng có nói việc phóng sanh. Ngoài ra, khảo cứu luật tạng, kẻ nữ sĩ trước thọ tam quy, sau truyền 5 giới không cho vượt bực. Cho nên nay phóng sanh nhưng chỉ nói Tam Quy mà không cần nói thêm 5 giới. Có người hỏi Ngài Vân Thê Liên Trì rằng:

- Thuyết pháp đối với người do người chưa tin nên khuyến khích phát tâm, súc vật làm sao hiểu được?

Sư đáp rằng:

- Tánh nơi hàm linh không thể nghĩ bàn, đặt kỳ vọng nơi loại súc vật hoàn toàn không biết được. Con linh (giống như chuồn chuồn mà không bay xa được) sống trong bầu trời, chim đại bàng biết luật, con cọp vểnh tai nấp đất nghe ngóng, con lân đổ nước mắt cảm tâm. Những loại như thế so sánh ở đây đủ biết… Giá như nghiệp nó nặng không biết cũng là một loài thiện ở vị lai. Ví như mùa đông trời lạnh xuống thấp, mùa xuân ấm áp tự nhiên cây cối nẩy mầm. Chỉ lấy tâm từ hướng đến để nói, hành giả tự có được phước, nên phải giáo hóa không phân người, súc vật, cho chí phóng sanh cảm ứng đời sống bên trong rất nhiều. 

Nay lược nêu ra một số điều rất cổ như Kinh Kim Quang Minh quyển 4 nói về cha con trưởng giả Lưu Thủy trên đường đi thấy một ao nước cạn có 10,000 con cá sắp chết, 4 bề vùng vẫy. Lúc đó trưởng giả cho nước và thức ăn cho cá mà cứu được chúng rồi cá lội xuống ao. Ông trưởng giả giảng cho cá pháp 12 nhân duyên và niệm “Nam Mô Bảo Thắng Như Lai”. Về sau, 10,000 con cá ấy đều sanh lên trời Đao Lợi, chúng biết đời trước mình là cá và được cha con ông trưởng giả cho nước uống và thức ăn. Lại vì bọn chúng, ông giảng pháp 12 nhân duyên và niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng Như Lai. Vì nhân duyên đó khiến đời sau chúng được sanh cõi trời. Đây là cách báo ân, mỗi con cá cầm một chuỗi trân châu anh lạc tới nhà ông trưởng giả Lưu Thủy dâng ngọc báu, tán hoa. Ông trưởng giả Lưu Thủy lúc đó, nay chính là Phật Thích Ca Mâu Ni; 10,000 con cá lúc đó nay là 10,000 thiên tử đều mong Phật truyền đạo Bồ Đề

Đời Tùy Ngài Thiên Thai trí giả đại sư ở chùa Tu Thiền tại Đài Châu, lấy y mặc khuyên người bán một sở đất làm ao phóng sanh: Ngài thường ở đó giảng Kinh Kim Quang Minh, bổng một hôm thấy vô số chim hoàng tước tới trước giảng đường tụ tập về đây trong nửa ngày, rồi kêu lên tiếng buồn rồi bay đi. Đại sư thấy chim nói rằng: “đây là cá sông hóa làm chim hoàng tước tới tạ ân Ta đó, nay là chùa Đại Từ vậy.”

Lại đời Tùy, có Kế Vũ nhậm chức ở Đài Châu làm quận trưởng, thường mời Thiên Thai trí giả giảng Kinh Kim Quang Minh phẩm Lưu Thủy trên sông, ngư dân nghe pháp đều tôn trọng sanh mạng bỏ nghiệp sát hại. Vũ sau trở lại kinh đô ngồi thiền thấy mình mắc tội bị hạ ngục. Đương gặp lúc lâm nguy ấy bèn trực nhớ tới cầu đại sư, thân tới cứu hộ. Đêm đó mộng thấy đàn cá thổi bọt tung nước. Sáng sớm hôm sau, Vua ra lịnh bắt Kế Vũ hài tội. Căn cứ chuyện này lấy từ Kinh Kim Quang Minh một đoạn chỗ trưởng giả Lưu Thủyphóng sanh là việc điển hình sớm nhất. Cho nên Kinh Kim Quang Minh phẩm phóng sanh là pháp quan trọng đáng tin mà về sau các bậc hiền phải biết đó.

1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19698)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28779)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20561)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19298)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30295)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36269)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33028)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35339)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20849)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21786)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25098)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25667)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31075)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18449)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 24995)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23649)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28780)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20724)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31333)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25413)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29577)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22397)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25575)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23116)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25624)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23604)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40480)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23210)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22282)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 21964)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23375)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16848)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23188)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24190)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 40895)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18855)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20332)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27584)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 37931)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 33922)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36670)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23850)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29039)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 59867)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27445)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68487)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24397)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24333)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22548)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26201)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26393)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20639)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19886)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27381)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46120)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53334)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23463)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 20978)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25404)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29089)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant