Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

46. Tân Tạo Tượng Phật

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14243)
46. Tân Tạo Tượng Phật

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.46 Tân Tạo Tượng Phật

Sách Tam Quy Chánh Phạm ghi: sau khi Phật diệt độ, dùng khắc, họa, nặn hình tượng Phật để lại cho đời. Đó là tượng Phật còn để lại, về sau vì trụ trì Phật bảo là chỗ dựa hợp lý với niệm tôn kính của ta; tượng ánh vàng sáng chói có thần sắc như sống động. Nếu bị hư hại phải tự tu bổ sửa lại, chỉ e chùa nghèo không thể quyên góp đủ tiền, hoặc có tín chủ phát tâm thành tu sửa cũng không có gì trở ngại. Mong rằng không phải là mệnh lệnh cưỡng bức khiến người không vui, làm cả đôi bên đều chẳng có lợi gì. Lại như ngày nay nghe tăng đúc tượng Phật có hai tội:

Thứ nhất: Mượn cớ đúc tượng làm nhân duyên quyên góp của tín thí cho vào túi riêng là chánh phạm. Kinh Lăng Nghiêm quyển 3 nêu rõ lời dạy: Có tâm trộm là phạm lỗi lầm.

Thứ nhì: Đàn tín bỏ tiền đúc tượng Phật mà vẫn dùng của Tam Bảo cũng phạm tội. Kinh Niết Bàn có nêu rõ: ăn cắp vật của Phật mắc tội thuộc tội thứ hai này. Vì thế phải răn dè cái tệ hại trộm của Tam Bảo này vậy. Ngu tăng chỉ tham thấy lợi trước mắt chứ không sợ quả báo đau khổ về sau; bèn nói tăng là Phật tử. Y thực đều nhờ ánh quang Phật nhưng phóng ý làm dối tự cho là được, thật là đáng thương xót! Đến như tu tạo tuy không nhất nhất cho đầy đủ tướng hảo, nhưng cũng phải giống một phần lớn chẳng để đến độ bị nhầm lẫn. Nay tạo tượng Phật với tướng nhục kế[9], lông trắng giữa chặn mày, chữ vạn ba tướng ấy hoàn toàn mất gốc tướng Phật. Căn cứ 32 tướng tốt của Phật, một tướng nhục kế phải ở ngay đảnh có màu hồng nổi cao nên gọi là vô năng kiến đảnh. Nay đa phần cho ra trước, lại chẳng nổi cao thật là sai lầm. Đến như 2 tướng bạch hào, tướng chữ vạn đều không thấy thợ tạo chi cả. Việc đúc tượng của Tây Tạng, chỉ có nhục kế là đúng pháp, còn chữ vạn làm cho có, đến như tướng bạch hào cũng lại không thấy. Ngoài ra, tượng Phật miền Tây lưng nhỏ làm lệch hơn là đúng pháp; tượng các nước phía Đông lưng thô không phải là tướng Phật. Đây chỉ là mới đề cập một vài nơi có liên quan tới đại thể (việc chung). Vả lại, đề cập việc tu tạo như thế cho người sau có tạo tượng Phật cần nên lưu ý. Nội chỉ một tướng bạch hào thôi mà thợ nặn không biết tô lên một lớp nước châu xương (đỏ) nơi giữa 2 hàng lông mi cũng tạm được, vì xem đây là ngoại lệ. Tướng hảo phải thấy mà sức thợ có thể làm được. Vì thế trích dẫn kinh để hoàn bị điêu khắc đúng pháp gần giống như Phật thật. Phàm đúc tượng Phật quan trọng là trong ngày khai công, trước nên cúng ngọ, đọc sớ đầy đủ để cầu mọi sự tốt đẹp. Sớ rằng:

Từng chiêm ngắm thân sắc vàng tía của Phật là làm mô phạm cho toàn pháp giới. Hiện tướng bạch hào sáng soi rọi khắp cõi Diêm Phù Đề này cảm hóa lòng thành của sự ngưỡng phục, đặc biệt sắc vàng tử kim dùng cho tượng gỗ, tượng đất; chừng biết có 14 trời hạ giới. Thành tâm niệm… (xưng tên người niệm) không gặp đời tượng pháp, thương thân mắc tội báo sâu dày. Tưởng nghĩ bóng từ dung, may nhờ thiện căn làm duyên khởi. Nay cung tựu tại chùa… tạo lập tượng bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tượng tốt một pho, bên trái tôn giả Ca Diếp, bên phải Ngài A Nan, khiến cho người người ngưỡng vọng để sanh tâm kính lễ, chốn chốn theo gương tạo phước điền lương hảo. Đặc biệt chọn giờ… ngày… tháng này, trước nghĩ tưởng hồng ân; mong xin gia bị. Kể từ hôm nay lập mô hình bắt đầu cho tới ngày tượng hoàn thành viên mãn. Mọi việc rắc rối phức tạp không bị ảnh hưởng; mọi duyên hổ trợ được thuận chiều; nhờ oai thần che chở, công tạo tượng được suốt thông. Đẹp tốt lạ thay nhờ kiệt xuất công phu của tay người thợ khéo không thể sánh ví. Sáng soi các biểu tướng uy nghi, y chánh báo viên thành; trăm ức cõi hàm mông gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, tín thí gội nhuần ân, tòng lâm hưng thạnh, long thần hộ vệ đời - đạo mong nhờ. Lời bày tỏ bên trên, ngưỡng mong Tam Bảo chứng minh gia hộ. Công trình khởi công tạo tượng Phật văn sớ.

Phật lịch 2550, ngày… tháng… năm… Trụ Trì …. Chí thành dâng sớ.

Nếu sửa tượng Phật cũ, đợi giờ cúng ngọ Phật xong, sau đó người thợ mới che tượng lại và sửa.

Chứng nghĩa ghi rằng: Hầu cạnh bên Phật người đời cho là A Nan, Ca Diếp là theo cách nhìn của thiền tông như Kinh, luật, luận đã đề cập. Người luôn theo hầu Phật thật ra là Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên chứ không phải Ngài Ca DiếpA Nan. Căn cứ luận Tỳ Bà Sa quyển 135, Ưu Ba Cúc Đa tôn giả tự vì chưa từng thấy dung nghi Phật khiến ma vương hiện hình. Nhờ quán Phật tượng, ma phải phục; tức ma hóa hình làm Phật, bên phải là Xá Lợi Phất, bên trái Đại Mục Kiền Liên. Con ma này bèn thân tới gặp Phật, điều này đủ để trưng ra bằng chứng vậy. Nhưng theo thiền tông, người hầu Phật là Ca DiếpA Nan tôn giả. Giảng giải người hầu Phật là Xá Lợi PhấtĐại Mục Kiền Liên tôn giả, nhưng Luật tông suy luận phải là Ưu Bà LyĐại Ca Diếp tôn giả. Tùy theo các nhà lập phái chủ trương mà tạo tượng thích hợp. Theo lý cũng đúng thôi, vì pháp không nhất định vậy. Công đức tôn tạo Phật tượng như Kinh Pháp Hoa ghi rõ: nếu người nào vì Phật, tạo lập các hình tượng, điêu khắc các biểu tướng Phật đều sẽ thành Phật. Hoặc dùng 7 món báu tạo (hoặc), sắt gỗ và bùn đất, hoặc dùng vải sơn dầu vẽ tranh hình Phật v.v... những người như thế đều sẽ thành Phật đạo.

Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng: Phật lại phóng quang gọi là Hoan hỷ, ánh sáng làm cho hết thảy chúng sanh giác ngộ, khiến cho họ yêu quí Phật, Bồ Tátphát tâm Bồ Đề nguyện chứng đạo vô thượng. Tạo lập tượng Như Lai đại bi, các tướng tốt trang nghiêm ngồi trên tòa sen, luôn hoan hỷ đủ công đức cao đẹp, vì thế nên đạt được ánh quang minh này. Đầy đủ như các Kinh Lâu Các chánh pháp, Kinh Cam Lồ cổ và Kinh Công Đức tạo tượng v.v… đều có nói thân Phật đủ 32 tướng tốt. 

Kinh Phật thuyết bá phước Đại Thừa ghi rõ 32 tướng như:

1. Bàn chân bên dưới bằng phẳng, 

2. Tay chân có màng thiên bức luân (như chân ngỗng), 

3. Các ngón tay, ngón chân thon dài, 

4. Tay chân đều mềm mại, 

5. Gót chân đầy đặn, 

6. Bàn tay, bàn chân ngón bao lớp màng mỏng, 

7. Mu bàn chân cao bằng phẳng, 

8. Bước dài như nai chúa, 

9. Đứng thẳng cân đối, tay thả xuống quá gối, 

10. Âm tàng ẩn kín, 

11. Thân cao lớn như cây Ni Câu Đà

12. Mỗi lỗ chân lông chỉ một lông mọc, 

13. Trên lông ngã theo một chiều sắc xanh mềm mại rợp về bên phải, 

14. Thân sắc vi diệu hơn cả vàng cõi Diêm Phù

15. Thân sáng tỏ một trượng , 

16. Da láng mịn trơn không dính bụi, 

17. Hai vai tròn trịa, 

18. Thân to lớn nghiêm oai, 

19. Ngực như sư tử chúa, 

20. Hai nách dưới đầy đặn, 

21. Răng trắng lớn 2

2. Có 42 răng 

23. Răng trắng khít đều mà chân sâu, 

24. Bảy chỗ đầy đủ (thất khiếu), 

25. Trán vuông như sư tử chúa, 

26. Trong cổ được chất thượng vị (nước miếng thơm), 

27. Lưỡi mềm nhuyễn có thể che tới mặt đến mí tóc, 

28. Giọng trầm sâu như chim Ca Lăng Già

29. Mắt như hoa Ưu Bát La, 

30. Tròng mắt như trâu chúa, 

31. Giữa 2 hàng lông mày có sợi lông trắng màu như tuyết bạch, 

32. Trên đầu có nhục kế (cục thịt mô lên như búi tóc).

Và lại có 80 vẻ đẹp tùy hình: bắt đầu từ nhục kế cao lộ lên tướng vô kiến đảnh cho đến tóc dài không rối, bên phải trở lại xanh cam. Ngoài ra 80 vẻ đẹp như Kinh tả rõ, ở đây không ghi ra hết, cộng lại gồm có 192 tướng. Nếu tạo hình tượng Phật do mục đích thủ lợi thì phạm tội như Kinh Lăng Nghiêm phần 3 quyết định khuyến giáo giới rõ ràng. Kinh ghi rằng: 6 đường chúng sanh mà có tâm không trộm cắp thì không theo dòng sanh tử. Tâm tham không trừ đọa trong sanh tử không có kỳ ra khỏi. Ta dạy các Thầy Tỳ Kheo đi tới các miền để khất thực làm cho mình bỏ tâm tham chứng đạo Bồ Đề. Này các Tỳ Kheo: không nên ăn đồ chín mà tàn sát sanh mạng, qua lại 3 cõi chỉ một lần, đi rồi không trở lại nữa. Nếu bọn tặc mượn y phục ta giả dạng thì sao? Buôn thần bán Phật, tạo vô số nghiệp mà nói Phật pháp; phỉ báng xuất gia có đủ trong Tỳ Kheo, là hạng Tiểu Thừa. Do vậy vô số chúng sanh nghi ngờ đọa vào địa ngục vô gián (tra tấn liên tục không hề gián đoạn). 

Tạo hình Phật để thủ lợi cũng phạm tội như Kinh Niết Bàn quyển sau phần trên ghi rằng: nếu sau Phật tịch diệt, kẻ thật tín tâm làm việc bố thí nên tạo hình tượng Phật và y Phật, dùng 7 báu, phan lọng, nhang dầu, hoa quí để cúng dường Phật. Trừ cúng dường Phật, không được dùng việc khác, dùng vào việc khác ắt phạm tội trộm cắp đồ của Phật. Ôi, cúng dường Phật mà còn chẳng xử dụng vào việc khác, huống gì tiền bạc đúc tượng Phật, đâu có thể đem dùng vào việc khác sao? Nhân quả rõ ràng việc thăng trầm đọa lạc đều do đây mà chuốt lấy.

Tạo hình tượng Phật hoàn thành viên mãn nên chọn ngày khai quang. Đúng ngày khai quang, đốt hương đèn và các đồ cúng trang nghiêm, với 6 món đồ diệu cúng đều bày biện đầy đủ. Trước mời những người đúc tượng, điểm đèn quang minh. Chư tăngtrai chủ đảnh lễ Tam Bảo, trai chủ quỳ dâng hương, đại chúng tán lư hương xong, Duy Na xướng lớn: Nam Mô Thích Ca Như Lai (đại chúng hòa theo) liên tọa giáng lâm. Các danh hiệu Phật, Bồ Tát khác cũng xướng như vậy. Đại Ca Diếp tôn giả, A Nan Đà tôn giả (đại chúng hòa theo), Bồ bặt liên tọa chứng minh, xong chúng cùng tụng bài kệ:

Diện Phật sáng ngời như trăng sáng

Như mặt trời chiếu diệu thế gian

Sáng chiếu soi tỏ khắp mười phương

Hỷ xả từ bi đều sẵn sàng

Như ở hội này tạo Phật tòa

Hết thảy như thế trong trần gian

Phật thân không khứ cũng không lai

Bao nhiêu quốc độ thảy hiện ra.

Điểm chuông trống 1 hồi 3 tiếng, Duy Na đọc văn khai quang như sau:

Từng nghe rằng, mắt sáng rỡ thân vàng tía hiện thân 48 diệu tướng, lông trắng giữa chặn mày, tướng chữ vạn phóng ra trăm ức tia sáng, tin điềm lành ứng hiện ở ngay lúc này thật là mở đường vận thông. Lại nguyện: … và chúng con, mong khát khao được giáo pháp Thế Tôn diệu dụng thanh tịnh. Ngưỡng mong đức đại từ khai ngộ nơi tượng báo ở kim thân quang tụ, đã trộn hòa đất vàng để hoàn thành bảo tướng. Hôm nay chọn được ngày tốt khai quang điểm nhãn. Lại nguyện Phật hiện tướng chân thật, phóng vô lượng ánh quang uy nghi đài sen, làm nhân cho quần sanh đê đầu kính lễ . Rực rỡ ánh sáng kim thân chỉ cho đệ tử chúng con cung chiêm lời dạy. Quy y Phật dứt sạch 3 đường ác, vâng theo lời dạy mà siêu lên 9 phẩm sen vàng.

Nhất tâm chí thành phụng thỉnh; chúng hòa: hương hoa đăng phụng thỉnh. Đệ tử … (tên Trụ Trì) chúng con nhất tâm phụng thỉnh.

Nam Mô Ta Bà giáo chủ bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, trăm ngàn ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật (những vị Phật, Bồ Tát khác tùy thay đổi). Mong nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót hữu tình phân thân hiện hình ở trên đài sen. Thỉnh 3 lần xá 3 xá. Duy Nasám chủ đều vận tâm thành thỉnh Phật Thích Ca theo lời thỉnh mà đến, nghiễm nhiên đã ngồi trên đài bảo liên. Trai chủ niệm hương, đại chúng đọc cúng bài kệ như sau:

Tròn đầy cõi pháp giới Phật thân

Hiện ra trước mắt mỗi chúng sanh

Tùy duyên ứng hiện khắp tướng không đồng

Nhưng luôn ngồi tòa Bồ Đề này.

Án chiên mộ già, Bát đầu ma, tốn nã lệ, đà la đà la nể, mạn nỗ lệ hồng (3 lần).

Xong hồi trống 1 hồi 3 tiếng. Duy Na lại tuyên dương Đại Ca Diếp tôn giả, văn khai quang như sau:

Từng nghe rằng, tánh linh trôi nổi nương gá, thiên thu nghĩ khó tròn huệ mạng. Một phái diễn nối dõi mạch người của Long Hoa, phụng vì Tây Thiên Sơ Tổ Ca Diếp tôn giả; tại hội Linh Sơn ngộ tâm ấn niêm hoa trước tháp đa tử; đón gió mát linh reo, làm tiêu biểu cho cổ kim truyền đăng, mở suối nguồn truyền pháp khắp Đông Tây; y bát lưu lại đượm nhuần chốn nhơn thiên ngưỡng phục. Lại nghĩ: chúng con (thay đổi) chìm đắm mê mờ nhiều đời nhiều kiếp, chớ nên thấy từ nhan mà mĩm cười; vội yêu kính dung thánh. Đặc biệt giống tôn tượng của Đại Ẩm Quang (Ca Diếp) kính chọn ngày lành khai quang điểm nhãn. Lại nguyện: ánh sáng vàng kim rải khắp pháp giới làm cho rực rỡ, tâm từ mở rộng ân che chở muôn loại quần sanh, khiến Tổ đạo được quang huy làm cho chánh pháp trụ lâu dài. Duy Na thỉnh: một lòng phụng thỉnh, đốt nhang thỉnh, đệ tử… (tên Trụ Trì), chúng hòa theo: một lòng phụng thỉnh…

Nam Mô đầu đà đệ nhất, niêm hoa ngộ chỉ thiền tông Sơ Tổ Đại Ca Diếp tôn giả. Xin nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót hữu tình, phân thân hiện tướng vào ngồi liên tọa nơi đây.

Nam Mô thiền tông Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp đại tôn giả, mong nguyện Ngài theo Phật quang lâm đến đây thọ bổ tòa cúng dường này. Án chiên mộ già, Bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng.

Tiếp tục Duy Na đọc văn khai quang tượng Ngài A Nan.

Chứng nghĩa ghi rằng: tiếng Phạn là Đại Ca Diếp, Trung Hoa dịch là Đại Ẩm Quang. Trong số đệ tử Phật có thập lực Ca Diếp, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp cùng họ nên phải thêm chữ Đại để phân biệt với các vị khác. Gọi Tất Bát La ,Tàu dịch là cây Bồ Đề, cha mẹ cầu thọ thần mà sanh Ngài nên theo cây đặt tên; người nước La Duyệt Kỳ thuộc thành Vương Xá. Cha là Ca Tỳ La mà đương thời xưng là đại phú trưởng giả. Ca Diếp nhân trong khi cùng với một người đàn bà nghèo khổ đồng tạo tượng Phật Tỳ Bà Thi cúng dường và họ thề cùng nhau thường làm vợ chồng. Thân sắc vàng thật lấy thật, thân Ca Diếp có sắc vàng đủ 30 tướng. Người phụ nữ kia cũng được kết quả thân sắc vàng như vầy. Tuy là chồng vợ nhưng tỏ rõ không có oan trái, sau xuất gia được gặp Phật, nghe pháp liền đạt vô lậu (dứt hết phiền não), Ngài sống lâu đến 130 tuổi. Người phụ nữ kia cũng chứng 4 thánh quả. Ca Diếp tu hạnh khất thực, thực hành đầu đà cho tới lúc tuổi già không thôi bỏ. Phật dạy: 

- Ông lúc về già các căn suy nhược có thể bỏ khất thực và nhận y cúng dường.

Ca Diếp đáp:

- Con phải suốt đời tu hạnh đầu đà

Phật bảo:

Lành thay! Nếu Ca Diếp hành đầu đàthực hành suốt đời, pháp Ta hẳn trụ lâu dài. Nơi hội Pháp Hoa Phật thọ ký cho trong đời vị lai được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai

Đến hội thuyết Kinh Niết Bàn, Phật bảo các Tỳ Kheo rằng:

- Ta nay có chánh pháp vô thượng đem phú chúc cho Ca Diếp, vì các ngươi làm đại y chỉ.

Sau khi Phật diệt độ, có cuộc kết tập tam tạng Kinh điển tại thành Vương Xá để hoằng dương chánh pháp, và đến 20 năm sau mới đem giáo pháp phó chúc cho A Nan. Ca Diếp nhận phó chúc tới núi Kê Túc (Trung Hoa) nhập định an trú, đợi Phật Di Lặc xuất thế; giao phó pháp y xong mới nhập diệt bằng nổi hỏa thiêu thân.

Văn khai quang tượng A Nan như sau:

Từng nghe rằng: Ngài là Khánh Hỷ, xưa được di huấn Của Ẩm Kỳ Đồ, thân nghe pháp tạng, đón nhận phó chúc tại hội Linh Sơn, cung kính A Nan Đà tôn giả qua công lao kết tập, quán diệu nghĩa nơi thiên hoa. Ngài trí huệ đa văn, truyền một giọt nước khác đồ chứa, cảm túc duyên cân bình. Nhận tâm ấn nơi sư huynh Ca Diếp, lần theo giáo pháp, thích ngắm vóc thanh như bạc, khát ngưỡng dung nghi. Đặc biệt tôn tượng thiếp vàng hoàn tất, chọn lựa ngày lành khai quang điểm nhãn. Ngưỡng mong bậc Thánh sư dũ lòng cảm cách.

Lại nguyện: đèn huệ sáng soi bằng vô lượng ánh sáng của mặt trời mặt trăng; sữa pháp mênh mông như mạch nguồn của sông ngòi lưu chuyển. Cháu con không ngừng nghỉ, Tổ đạo vững trường tồn.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh. Đại chúng hòa: nhứt tâm phụng thỉnh.

Nam Mô đa văn đệ nhất thị giả Phật, Tổ thứ nhì của Thiền tông, A Nan Đà tôn giả. Ngưỡng mong không trái bổn thệ, thương xót hữu tình phân thân hiện tướng đến ngự nơi liên tòa này. Ba lần thỉnh xong xá 3 xá. Duy Na niệm tưởng A Nan tôn giả theo lời thỉnh mà đến nghiễm nhiên ngồi trên tòa bảo liên. Đại chúng tụng kệ dâng hiến tòa:

Nam Mô Thiền tông đệ nhị Tổ, kết tập tam tạng A Nan tôn giả, mong Ngài theo Phật quang lâm thọ bửu toà cúng dường này.

Án chiên mộ già, bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng (3 lần).

Chứng nghĩa ghi rằng: tiếng Phạn là A Nan Đà, Trung Hoa phiên âm là Khánh Hỷ. Vì sanh nhằm ngày Phật thành đạo khiến tâm Vua hoan hỷ, toàn quốc hân hoan nên đặt tên là Khánh Hỷ. Là em chú bác của Phật. Con Bạch Phạn Vương, là em ruột Điều Đạt. A Nan mặt đầy đặn như trăng rằm, mắt như sen xanh, năm 8 tuổi xuất gia, 13 tuổi thị giả Phật, là đa văn số một. Nơi hội thuyết Kinh Pháp Hoa được Phật thọ ký cho A Nan trong đời vị lai thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Phật lại bảo chư Bồ Tát rằng: Ta cùng A Nan thời Phật Không Vương cùng lúc phát tâm Bồ Đề. A Nan thường ưa thích đa văn, còn Ta luôn tinh tấn, do đó Ta được chứng quả Bồ Đề, còn A Nan hộ trì pháp Ta, cũng hộ trì giáo pháp chư Phật trong tương lai nữa. Đến hội Niết Bàn, Phật khen ngợi A Nan có 8 công đức khó thể nghĩ bàn và những việc thù thắng khác. Lúc A Nan gặp nạn Ma Đăng Già, Phật sắc lịnh cho Văn Thù đem chú hàng ma đưa A Nan về với Tăng đoàn. Theo như Kinh Đại Bát Niết Bàn, sau khi Phật diệt độ, Ngài Đại Ca Diếp kết tập pháp tạng, đưa A Nan lên ngồi tòa sư tử trùng tuyên lại các Kinh. Ca Diếp lúc sắp nhập diệt đem pháp giao phó cho A Nan gìn giữ. A Nan đi khắp nơi giáo hóa 20 năm, thường đến ngoài thành Vương Xá nơi tinh xá Trúc Lâm, nghe các Tỳ Kheo tụng kệ rằng:

Nếu người sống trăm tuổi

Chẳng thấy nước mưa cạn

Không bằng sống một ngày

Mà được thấy nước tràn…

A Nan thương cảm nói rằng, đây không phải kệ của Phật nên nói, nên tiếp theo:

Nếu người sống trăm tuổi

Chẳng hiểu pháp sanh diệt

Không bằng sống một ngày

Mà hiểu được pháp này.

Có vị Tỳ Kheo hướng về các Sư thuyết, Sư nói: A Nan cổ lổ, nói không ai tin được. A Nan sau khi nghe Tỳ Kheo kia nói thế, do đọc bài kệ trước liền tự nghĩ: Nay các tỳ kheo không nhận lời dạy, tôi ở đời vô ích nên nhập Niết Bàn là hơn. A Nan liền đến cung Vua cáo biệt nhà Vua, từ giả Vua ra đi. Vua cho người đuổi theo tới sông Hằng, A Nan lên thuyền ra giữa dòng, họ cúi đầu bạch rằng: “Ba cõi cần đèn sáng mong Sư đừng nhập Niết Bàn”. Lúc bấy giờ tại Tuyết Sơn có 500 tiên nhơn quán xem thấy A Nan muốn nhập Niết Bàn, liền phi không mà đến cầu xin xuất gia. A Nan dùng thần lực biến sông Hằng thành đất vàng, vì nhóm Mạt Điền Địa và các tiên nhơn mà thuyết pháp được chứng đạt quả A La Hán. Lúc ấy Mạt Điền Địa muốn nhập Niết Bàn trước, A Nan phó chúc rằng: “Phật thọ ký cho ông phải tới nước Kế Tân kiến lập Phật Pháp; nên xua tan ý định nhập diệt, chờ đủ thời gian hẳn nhập diệt.” A Nan phi thân lên hư không biến hóa 18 pháp thông đi như gió với Phấn Tấn tam muội phân thân làm 4 phần: một phần cùng với Thích Đề Hoàn Nhân[10], một phần cùng với Bà Già Long Vương, một phần với Tỳ Xá Ly tử và một phần cùng Vua A Xà Thế. Bốn nơi tại mỗi nơi đều khởi sự xây tháp cúng dường xá lợi.

Duy Na bạch rằng:

Trở lên phụng thỉnh bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhị vị đại tôn giả Ca Diếp, A Nan. (Ngoài chư Phật, Bồ Tát khác tùy nghi thay đổi), dùng thiên nhãn xa thấy, thiên nhỉ nghe rõ, tha tâm ắt biết, thân thông suốt tự tại. Nhất niệm hay cảm hiển nhiên Thánh ứng, thay tụng mật ngôn bao dung thấm rộng. Phật Như Laichân ngôn phụng thỉnh ân cần nên trì tụng như sau: 

Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm. Án ô tá bát la đế, hạ đa đế, tát phược đác đa nghiệt đa, cu xá mạo địa. Án sa lý giả một lý, bố la ca dã tát ha.

Duy Na lắc linh tụng chậm rải 3 lần, nghĩ tưởng một vị tôn giả, hai vị tôn giả ngồi trên liên tòa có ánh sáng giao thoa và bạch rằng: mong nhân bí mật sáng soi hào quang, trai chủ cùng đại chúng lạy 3 lạy. Tụng chú Kiết Tường an vị Thánh tượng.

Đảnh lễ Thế Tôn không ai trên, Ca Diếp, A Nanlòng từ, con nay y giáo an Thánh vị. Nguyện đức Từ Bi xót thương nạp thọ, Ca Diếp Như Lai đủ đại bi, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, xin Phật hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành

Câu Na Mâu Ni thấy rõ ràng, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành

Ca La Cưu Đà như núi vàng, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành

Tỳ Xá Phù Phật sạch ba cấu, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Thi Khí Như Lai lìa phân biệt, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Tỳ Bà Thi Phật như trăng rằm, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Phất Sa Minh đạt đệ nhứt nghĩa, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Đề Xá Như Lai luận vô ngại, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Ba Đầu Ma Phật sạch vô cấu, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Nhiên Đăng Như Lai quang minh rực rỡ, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.

Tụng kệ xưng tán 10 vị Phật xong, tiếp cúng ngọ. Xem nghi cúng Phật đầy đủ có nơi Thiền môn nhựt tụng nên ở đây không ghi hết.

Phần phụ: Đọc văn sớ như sau:

Từng nghe rằng: Phật ứng hiện thân tùy chúng sanhkết duyên hoan hỷ; diệu tướng đoan nghiêm hằng bất động mà thăng điện quang minh, lúc ấy có 14 trời hạ giới v.v…

Nhiếp niệm: tên… vào ngày… phát tâm thành tạo tượng Thích Ca Như Lai, Ca Diếp, A Nan, 3 bức Thánh tượng. (các tượng Phật, Bồ Tát khác tùy đó thay đổi). Nay vào ngày … đã thành tựu, tuân thừa quy tắc của chư Thánh, không như lăng tẩm đời thường phi ánh sáng bị che bởi cây đạo thọ, nghiễm nhiên thiền tọa tại Kỳ Viên cho người duyên phước quy y; hăm hở thắng lướt mong lựa chọn giờ… ngày … tháng này an vị tòa sen viên thành pháp tướng. (Nếu tụng kinh bái sám nên tiếp vào đây). Nguyện đem công đức này, cẩn xin hồi hướng.

Lại nguyện: bảo tọa phân thân, ứng cơ độ khắp quần sanh hiện tướng bạch hào rộng mở nhân duyên cõi pháp giới. Xin cúi đầu chắp tay cung kính gieo căn lành. Như tâm niệm miệng xưng đều gội nhuần ân phước huệ, cầu chúc nước nhà ổn cố, đạo pháp hưng long, tòng lâm yên tịnh; lớp lớp đệ tử hiền thánh tới lui, chúng tăng hòa hợp, luôn luôn xứng đáng là con của bậc long tượng. Bên trên văn sớ cung thỉnh Tam Bảo chứng minh, tạo tượng viên mãn, sớ văn khai quang.

Đọc sớ xong, tụng Tiêu Tai Kiết Tường chú, đốt sớ, trai chủ châm trà, đảnh lễ, tiếp đại chúng cùng đọc kệ chú này:

Án Sa ma la, sa ma la, di ma nẳng, tư cáp la ma, tư cáp la hồng (3 lần).

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Ngày đêm 6 thời thường an lành

Hết thảy các thời đều an lành

Nguyện các thượng sư thương nhiếp thọ

Nguyện ngày an lành, đêm an lành

ngày đêm 6 thời thường an lành

hết thảy các thời đều an lành

nguyện chư Tam Bảo thường nhiếp thọ.

Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày đêm 6 thời thường an lành, hết thảy các thời đều an lành, nguyện chư Hộ pháp thường ủng hộ.

Tiếp theo tụng Bát Nhã, sám văn, hồi hướng, phục nguyện, 3 tự quy y.

Ngoài ra, như tạo tượng Dược Sư, Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền v.v.. các thánh tượng khác lúc khởi công tạc tượng, khai quang, các nghi đều giống nhau, chỉ khéo đổi văn kệ mà thôi. Kinh Hoa Nghiêm 10 Phật kiết tường kệ, chỉ liên quan tới Phật mới dùng; lập điện Phật, lễ gác đòn dông, lễ khánh thành cũng có thể dùng được. Tới ngày lễ, niệm Phật Thích Ca hoặc Phật khác hay Bồ Tát tùy theo tượng tạo mà đổi xưng cho thích hợp.

Chứng nghĩa ghi rằng: kệ kiết tường trích Kinh Hoa Nghiêm quyển thứ 16, liên hệ đức Thế Tôn lần đầu tiên thăng lên đỉnh núi Tu Di, Vua trời Đế Thích trải tòa ngồi cho Phật và thỉnh Phật an tọa; xong liền tụng bài kệ 10 Phật Kiết Tường này. Nay lễ khai quang cũng tụng bài kệ đó để an vị tôn tượng Phật, vì tiêu biểu biểu tướng tượng Phật mới hoàn thành. Đức Phật lúc giáng sanh cũng như thiên chủ thỉnh Phật an tọa, là biểu tượng việc an lành này, để dứt trừ những việc bất tường.

Lại căn cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, Phật lên các cõi trời Dạ Ma, Đâu Suất, những vị thiên chủ ở đó thỉnh Phật vào tòa ngồi, trước cũng tụng kệ thập Phật Kiết Tường này, huống gì người đời đâu há lơ là ư? Theo ý tôi (người chứng nghĩa), phàm tạo tượng Phật mới hoặc xây chánh điện nên in bài kệ 10 Phật Kiết Tường này nhiều bản để tại điện Phật, nhờ Kinh này nói để ngăn ngừa được người tin tà, do người đời tạo với ý như tin tử vi, giờ hoàng đạo…
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32606)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6438)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30232)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7884)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12038)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12587)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34456)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52118)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10344)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12973)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21645)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9520)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10297)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12527)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12652)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16118)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13697)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14229)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9123)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11665)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11190)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11949)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11407)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12515)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14864)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11879)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17467)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31741)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11908)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant