Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

48. Tạo Lập Tăng Xá (Tăng Phường)

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12062)
48. Tạo Lập Tăng Xá (Tăng Phường)

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.48 Tạo Lập Tăng Xá (Tăng Phường)

Nói theo xưa của tự viện nên dùng từ “tăng phường”. Sách Tam Quy chánh phạm ghi rằng: “cạo đầu, nhuộm áo nghiêm gìn luật nghi; hoằng dương Phật đạo hành trì tăng bảo”. Nên công cuộc hoằng hóa phải nương chỗ nơi mà thành tựu; tăng phường chính là nơi đó vậy. Tiếng Phạn Tăng già, Trung Hoa dịch là hòa hợp chúng, chỉ 5 chúng xuất gia. Tiếng Phạn Già Lam, Trung Hoa dịch là chúng viên tức nơi tăng chúng cư trú. Nay nói tăng phường là gồm chung cả tiếng Hoa - Phạn để gọi vậy. Nhưng trong đó hàm ý là nơi phụng sự Phật pháp mà lấy tăng phường làm tên gọi. Điện Phật, nhà giảng không đứng riêng biệt xa cách với tự viện

Kinh Phạm Võng, giới không tu phước huệ ghi rằng:

Nếu Phật tử thường phải giáo hóa hết thảy chúng sanh, tạo lập tăng phường, núi rừng, ruộng vườn, xây tháp Phật, an cư kiết hạ, kiết đông, nơi chốn tọa thiền, hết thảy những nơi hành đạo đều phải kiến tạo v.v...

Luận về việc tạo dựng đạo tràng, là đề cập tới phí tổn xây cất không thể thiếu được. Ở tòng lâm có vị tri ốc (nhà cửa) chuyên lo việc xây dựng. Phàm các nơi xây nhà cửa vốn không có mà tạo dựng nên mới gọi là kiến tạo; đã có nhà mà hoặc bị nghiêng đổ, hư hoại nên trùng tu lại gọi là sửa sang. Phàm có sửa sang nên quyết định không thể do dự được, nếu có tính dứt khoát mới làm xong được việc. Vì lợi ích của đạo mà xuất gia chứ không phải vì tu chùa mà xuất gia. Việc tu tạo hoặc tín chủ tại gia phát tâm làm cũng được, hoặc người xuất gia đã dứt hết không còn oan trái đứng làm, nên biết hạ mình là việc cần thiết. Đây là thành phần thượng thặng lập chí xuất gia; nếu như chí không theo kịp, nhưng lập chùa là tạo được công đức. Tuy công đức về phần tánh chẳng có, nhưng phần tướng trang nghiêm cũng không thể thiếu. Phải biết không mê lầm nhân quả mà tin sâu tội phước, không làm hao tổn của Tam Bảo, như ếm nhẹm của tín thí hoặc không tranh đoạt lợi mà lại ham danh. Vì kiến tạo tòng lâm là làm quang huy đạo pháp đưa lại mọi điều tốt đẹp. Sang đoạt, cưỡng lấy làm cho người mất tín tâm mà vẫn dung nạp, tòng lâm chưa chắc đã hưng thịnh mà rốt cục rồi bị vô vàn sự oán trách đưa lại. Lòng người như thế nên rõ tâm Phật, giữ phận tăng khổ hạnh làm thiện mà vẫn chưa am tường luật học! Phải biết giới không riêng tư ai, nhưng cứ giương đông kích tây, nâng Giáp giúp Ất, hoặc chuộng Tý bỏ Sửu v.v… ưa thích người này ghét bỏ người kia, là chiêu lấy ác báo. Nên có câu rằng: “thiên đường chưa đạt tới, địa ngục trước đã thành”. Đâu không sợ sao? 

Lại có Trụ Trì tuy không quyên góp bên ngoài, nhưng trong tăng mượn danh kêu gọi riêng, nên ngoài chùa thông báo trên thư kêu gọi đề: bổn tự… tu tạo… công trình. Nội tự tận lực tạo dựng, mong đón nhận sự phát tâm cúng dường tùy hỷ của đàn việt, không có người nào ra ngoài quyên góp v.v... 

Có 2 việc cần nên lưu ý:

- Một là miễn mượn danh nghĩa quyên góp mà tạo nghiệp phải tội đọa

- Hai là chưa ai phát hiện ra việc này càng thêm mánh mung để liên lụy đến Tam Bảo không ít.

Chứng nghĩa ghi: Vân Thê Pháp vựng có nêu rằng, kiến tạo tòng lâm vì chúng vốn là việc tốt. Nhưng phải biết sự biết lý rồi sau mới làm. Nếu không vậy, như gặp việc phiền toái liền bực chí, hoặc đắm trước các duyên, thậm chí có người như suốt đời chưa đạt được ước vọng, có ngưòi đạt sở đắc nhưng tới giữa đường bỏ phế. Tuy lao tâm tận lực tạo dựng mọi việc vẫn canh cánh lo toan lại càng lao tâm nhọc trí, chính mình làm tổn hại không ít, huống chi còn ra sức quyên góp của người ư? Như lời tôi đúng thời tượng Phật hư hoại ai lo xây dựng lại? Tăng chết đói dọc đường không được thức ăn, ai giúp đỡ họ?

Mọi người chỉ bàn sự mà để Tam Bảo hoang phế; đâu chẳng nghe ai tu huệ, tu phước chi; La Hán ứng cúng mỏng cạn vậy hay sao?

- Đáp rằng: không phải thế đâu. Chỉ nghĩ nhất thể Tam Bảo hoang phế thôi, còn thế gian Tam Bảo nữa chứ!

Từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đến nay, việc đúc tượng, xây chùa, trai tăng v.v.. thời nào chấm dứt đâu; nơi nơi đều mong muốn, cớ sao lại lo lắng rồi đi kể lỗi vậy? Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: thiền sư Diên Ân Pháp An đến viện Như Ý ở Quảng Sơn, nhà hư nền hỏng mà vẫn an trú được 10 năm; nhà lớn đổ nát hư hại, tâm ý chẳng hề chán nản, chỉ lo lợi vật, giúp người. Về già, Ngài ở nhà tranh, nằm chiếu đất, tại Diên Ân, dột nát ánh sáng dọi vào mà vẫn lấy đó làm vui, làm cho Duẫn phú hào động lòng cho làm chùa mới lại. Ngài Pháp An mỉm cười rằng: pháp đàn vốn để độ người, nay không người phát tâm mà cưỡng ép làm gọi là tạo nghiệp chứ không phải là làm Phật sự. Mỗi lần gọi người tới Ngài nói rằng: vạn sự tùy duyênpháp an lạc.

Ngu Am ca tụng rằng:

Uy đó là huệ hành

Chẳng đến từ tâm thành

Lập đàn độ thúc nhanh

Khác nào vàng tô phết

Viện Như Ý tu hành

Vô tư tòng lâm thạnh.

Lúc về già Ngài ở Diên Ân, chắn gió che mưa lấy cỏ lau làm vách, chỗ ở người quân tử đâu có hạn hẹp. Cửa làm bằng cỏ, then bằng dâu, vui an nhiên tự tại. Nhà đỗ sụp, tối ở núp dưới gốc cây. Sư già luôn ở nhà tranh, trông nhìn lại xem ta như thế nào?

Y cứ theo Pháp Vựng Chích Cổ có 2 điều người sau nên khéo lãnh hội ý này:

1- Pháp Vựng gọi người lập chí là người cầu học, việc học chưa xong, không thể vì đó mà tự bỏ học; chẳng phải là hoang phí của Tam Bảo thế gian, mà đặc biệt huệ mạngtrọng yếu.

2- Chích Cổ gọi người đại tu hành tự không chịu an ở nhà rộng lớn, chẳng cần Phật điện to mới nhận lãnh; cưỡng cầu quyên góp trái điều Phật dạy, nên không làm vậy.

Trụ Trì ngày nay không được như vậy, cũng chưa từng lập chí tham học, trọn ngày vì lợi dưỡng, chỉ lo cho mình no đủ an nhàn, không đoái hoài đến Phật điện có hư hao đổ nát cũng mặc; cố ngoảnh mặt làm ngơ, lại còn cậy thế giả oai cưỡng cầu quyên góp; cũng có kẻ thật đáng thương xót !

Luận rằng, tự mình đã chẳng trang nghiêm nhất thể Tam Bảo[11], quả có trang nghiêm thế gian Tam Bảo cũng chỉ vớt vát được phân nửa; lời pháp đơn sơ này chưa diễn được trọn hết ý. Dù mình ở lều tranh, nhưng Tam Bảo đương nhiên phải là nơi trang trọng, ý này Chích Cổ chưa nêu ra hết vậy.

Hết quyển năm.

[1] Thập phát phú: 10 bực phát thú của Bồ Tát: 1. xả tâm, 2. giới tâm, 3. nhẫn tâm, 4. tấn tâm, 5. định tâm, 6. huệ tâm, 7. nguyện tâm, 8. hộ tâm, 9. hỉ tâm, 10. đảnh tâm.

[2] Thập trưởng dưỡng: 10 trưởng dưỡng Bồ Tát tâm, đó là 1. tâm từ, 2. tâm bi, 3. tâm hỷ, 4. tâm xả, 5. tâm thí, 6. hảo ngữ tâm, 7. ích tâm, 8. đồng tâm, 9. định tâm, 10. huệ tâm.

[3] Thập kim cang: 10 tâm như Kim cang của Bồ tát là: 1. tín tâm, 2. niệm tâm, 3. hồi hướng tâm, 4. đạt tâm, 5. trực tâm, 6. bất thoái tâm, 7. đại thừa tâm, 8. vô tướng tâm, 9. huệ tâm, 10. bất hoại tâm.

[4] Thập địa: 10 địa vị của Đại thừa Bồ tát như: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa.

[5] Kiến hoặc, tư hoặc: thấy sự vật một cách điên đảo sanh kiến giải sai lầm gọi là kiến hoặc. Những sai lầm thuộc tư duy, lập luận gọi là tư hoặc. chẳng hạn, nhìn thấy đúng, nhưng lại rút ra kết luận sai lầm, do tư duy sai lầm.

[6] Diêm Phù Đề: một châu trong 4 châu lớn, còn gọi là Nam Thiệm Bộ châu ở phía Nam núi Tu Di, tức là cõi chúng ta đang sống đây. Vì có nhiều cây linh tên là Diêm phù (jumbud) rất quí nên gọi theo tên ấy.

[7] Pháp khí: có 2 nghĩa, chỉ đồ vật và chỉ người. Đồ sử dụng cho lễ nghi trong chùa như chuông, bảng, trống, phách… gọi là pháp khí. Người vượt trội, làm được việc mà người khác không làm được là bậc pháp khí.

[8] Đầu đà: hạnh tu ép xác của các vị khổ luyện công phu mà người thường cũng khó theo đuổi kịp. Chọn nơi rừng sâu núi thẳm, nghĩa địa, gốc cây… làm chốn tu luyện định tâm, là cả một sự phấn đấu phi thường. Hành giả còn chịu nhịn đói, nhịn khát, nằm tuyết phơi sương, hành xác thân thể v.v… 

[9] Nhục kế: là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật, có chỏm thịt nhô lên trên đỉnh đầu đỏ au như búi tóc xoắn trông rất trang nghiêm.

[10] Thích đề hoàn nhân: vua trời Đế Thích đứng đầu cõi trời Đao Lợi, cũng gọi là trời thứ ba mươi ba.

[11] Nhất thể tam bảo, thế gian tam bảo: Tam bảo là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Tăng truyền thừa giáo pháp Phật dạy mặc dù hình thức là 3 ngôi, nhưng về lý tánh chỉ một: nhất thể. Nói theo thông thường 3 ngôi báu ở trong đời, cho nên nói thế gian Tam Bảo.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31274)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26187)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27465)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27845)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26666)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31152)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20214)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22837)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 29974)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21513)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20183)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22585)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20711)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30221)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28726)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34655)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44157)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35440)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22494)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21302)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20632)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24703)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37831)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 18974)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19286)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21758)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20824)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29466)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35034)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28772)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32544)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26173)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28879)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43060)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34851)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43843)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37819)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21294)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 42986)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48963)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39765)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53744)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36778)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40750)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49666)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47236)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27636)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 26984)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27190)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24048)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20812)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34278)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22423)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25062)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25791)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22899)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22439)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21713)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23289)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21123)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant