Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Nhà Tây

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12809)
4. Nhà Tây

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 6
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Tành vào Thanh.

Chương 6: Hai Dãy Đông Tây Lang

1.4 Nhà Tây

Thủ Tòa: Nếu nhà Tây gọi là Thủ lãnh tiêu biểu tòng lâm phụ tá Trụ Trì phân phiên thuyết pháp, khai thị đàn em lớp sau. Lãnh chúng ngồi thiền, giữ gìn qui củ, lo cơm cháo thiếu đủ, nhắc nhở các ban làm việc. Có tăng sinh nào làm mất nghi cách, chiếu Nội Quy xử phạt. Người già bịnh qua đời, lo lễ lược, chôn thiêu…Phàm làm việc chúng phải được công cử, như áo có bâu, như lưới có móc vậy. Tuy các bậc tôn túc ở phương xa, Trụ Trì đều nên lấy lễ tiếp xử, vui trong phận sự để làm hài lòng người lớn tuổi. Như Ngài Văn Thù làm Thầy của 7 vị Phật, cũng như trợ giúp Phật Thích Ca giáo hóa, vì chúng làm Thượng Thủ (lãnh đạo). Cho nên Ban Chức Sự phải chọn lựa kỹ người mà giao phó để chúng phục tùng. Phải là người có đức và hạnh tu đảm trách công việc mới trôi chảy.

Tại giảng đường là việc của vị Đô Giám. Vai trò thứ nhì của nhà Tây là Thủ Toà, người phải có tài đức mới xứng hợp lãnh đạo. Song dù ở cương vị lãnh đạo cũng đều là huynh đệ đồng học nên cẩn trọng, khiêm nhường, hòa nhã; không nên ngã mạn, cống cao để chúng chê trách.

Những công việc chính tại giảng đường, hậu đường do Thủ tọa đứng đầu nhà trên trông coi, còn đây là hậu đường (nhà sau) nên nói vị đầu của ban sau là vậy. Để tán thán tông phong làm mô phạm chúng chẳng phải công việc thường trụ Tam Bảo mà theo qui tắc là phương trượng đó.

Đường chủ: Công việc là trông coi các dãy nhà (nội tự) trong vai trò đôn đốc, kiêm luôn công việc lo cho người bệnh. Song vì là chủ của một tăng viện cũng phải có tài đức kiêm toàn, từ bi vì chúng mới là quan trọng. Cho đến thiền đường, Đường chủ kiêm luôn việc phụ trách khai thị đại chúng nên cũng liên quan rất nhiều tới ban thủ.

Chứng nghĩa ghi rằng: trở lên tòng lâm có 4 chấp sự, chia phân thành 4 trưởng ban, nhưng vai trò quan trọng nhất là Thủ Tọa. Bởi Trụ Trì công việc nhiều không có tâm phân biệt đối xử, nếu có là có người chuyên quyền. Khai thị răn nhắc, có biện pháp ngăn dè để không cô lập người tới học, là đều do vai trò Thủ tọa. Xưa có Linh Thọ Chi ở với Vân Môn phải đợi trải qua nhiều năm mới được cử làm vai trò này, há không thận trọng hay sao? Nếu các chức vụ nhà Tây chưa có người trách nhiệm, nên để trống, trừ những chức vụ khác khuyết phải bổ túc, làm cho ngọn đèn Tổ được lưu truyền mãi mãi.

Thư Ký viết các văn bản, nhất là nét chữ phải rõ ràng, không viết thảo khó đọc, nghiên cứu kinh điển căn bản đạo Nho, đạo Phật tinh thông mới có thể thích hợp trong vai trò này.

Chứng nghĩa ghi rằng: Cổ nhân chỉ vì việc lớn là thoát ly sanh tử. Khi rãnh nhàn lấy văn tự làm thú tiêu khiển điều hành công việc; sau việc vui nhàn để khai mở nhãn quan cho những người sau; không chuyên dùng từ văn vẽ là công vậy. Nhưng gần đây trong tăng giới hầu như muốn dùng văn hoa như là sở trường, đến nổi hoặc lưu lại nét bút thần tình, gởi hứng nơi cầm kỳ (đàn và cờ tướng) thi họa gọi là thú tao nhã; nhưng toàn quên hẳn tịnh tu, việc sanh tử đến nhanh không đợi một ai.

Chích Cổ ghi rằng: Bạch Trưởng Lão núi Nga Mi làm cả nghìn bài tụng cổ để ép Tuyết Bảo sơn chủ Đại Hòa, nhổ nước bọt vào mặt nói: “con quạ đen này thối lắm nên bay đi kẻo mùi hôi dính tới người ta, huống chi còn muốn hơn người ư?” Ngu Am có bài tụng rằng:

Vì tăng tăng say men văn tự

Tham thiền thiền tại tụng thiên thủ

Từng hiểu văn không nằm trên giấy

Cùng luận đạo đạo chẳng khai thông.

Ông không thấy Đại Tạng có tới nghìn quyển, pho sách đầy 2 giá, văn chương tuyệt kỹ như vậy sao? Đạo sáng là cái tinh tế, cái thấy của Khổng Tử về tuyết trắng uống một giọt sáng cười lên không có gì là Hữu, Thượng Tọa Tú giống mọi rợ miền Tây Nam. Một bên không biết làm lụng, một bên ít văn tự, y pháp ai truyền không mất? Tuyết Bảo trăm, ta nghìn, tiếng mèo rừng kêu, sư tử rống, ôi! Là thư ký phải nên biết đó, từ trưởng lão trở xuống đều phải biết đó.

Tri Tạng tinh thông kiến thức, tạng chủ trông coi về đại tạng kinh cũng thuộc phần vụ, nên hợp lực bảo vệ kinh tạng. Phàm kinh để theo pho hàm, tu bổ trang thiếu rách, cho đến việc cho sách vô lấy ra v.v…đều do Tri Tạng trông coi tổng quát; còn Tạng Chủ phân công việc. Tạng chủ giữ Kinh, giữ khóa tủ Kinh, phàm sách Kinh không cho mượn mang ra ngoài mà chỉ giới hạn trong sơn môn. Ngày trời hạ nắng tốt đem Kinh ra phơi, lúc thâu cất vào hàm phải kiểm tra số thứ tự, không nên để sổ rớt mất thứ tự. Người mượn xem phải ghi vô sổ, ngày tháng năm, tên người mượn, mượn Kinh gì, hàm số mấy. Khi trả kinh lại mới xóa sồ. Nếu người mượn tạm và do việc riêng cần đi xa, trước kiểm tra lấy lại; làm mất kinh bắt đền bồi hoặc cho ra khỏi chùa. Phàm giao trả cho ban quản lý nên tại phòng khách, nhà kho hay tại phòng Tri Tạng. Mỗi mỗi kiểm điểm lại rõ ràng, giữa chúng bàn giao qua nguời mới; người làm thiếu phải chịu trách nhiệm bồi thường (Niêm yết tại thiền đường).

Chứng nghĩa ghi rằng: pháp là một trong Tam Bảo mà Phật lấy pháp làm Thầy, thì pháp quan trọng đứng đầu. Hai vị chuyên trách Đại Tạng (pháp bảo) nên trân trọng cẩn thận.

Duy Na, dẫn chúng thủ chuông ngắt nhịp, dứt đoạn Kinh. Việc nội tự do một người trông coi, hai thời công phu, đôn đốc lãnh chúng giờ giấc thuyết pháp, thủ hiệu lệnh và hết thảy các việc hồi hướng, phục nguyện… lấy âm thanh làm Phật sựtrách nhiệm này rất quan trọng. Phàm trong viện làm mất oai nghi tuân theo nội qui xử phạt, không được dung dưỡng, nên phải huấn luyện người chánh trực nhận vai trò này. Như Trụ Trì có phạm cũng phải không một chút tư vị (riêng tư). Nếu có trình thưa Hòa Thượng phải chấp tay, quỳ gối ngay ngắn tỏ bày

Duyệt Chúng thủ mõ, cùng Duy Na thay nhau làm việc tùy theo số người. Nếu đông là 2, 3, 4 người. Trường hợp Duy Na vắng mặt, Duyệt Chúng thay thế. Mỗi tuần lễ 7 ngày luân phiên nhau phụ trách 2 thời khóa tụng; ngoài ra những lễ quan trọng khác lập thành 2 phó ban để bổ sung với số đông người. Rằm, Mồng Một thu nhận đồ vật cúng, dạy người mới tham thiền, chỉ cách lễ v.v… Mọi việc Phật sự tụng niệm phân công rõ ràng. Người rành lễ nghi phép tắc có thể nắm giữ vai trò này.

Tham Đầu (tham câu thoại đầu), người đứng đầu thiền đường trông coi việc tham thiền, tham học kẻ hậu học. Là người chủ trì quán sát xét nghiệm công phu, khai thị kẻ hậu học, giúp đỡ tham thiền, chẳng phải việc thừa. Việc thiền đường bắt đầu từ Thủ Tọa đến Tham Đầu là ngừng; cần phải chọn nói câu thoại đầu nào đầy đủ không vượt trình độ người nghe. Thủ Tọa ở nhà Tây đều không được thuyết (thoại đầu). Tây đường, hậu đường trở xuống không được thuyết, cho chí Duyệt Chúng trong lúc tham thiền cũng không thuyết thoại đầu.

Chứng nghĩa ghi rằng: y cứ sách phiên dịch danh từ, Duy Na là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là thứ tự, có nghĩa là biết việc tăng theo thứ tự. Sách Tam Bảo cảm ứng lục ghi rằng: thời Lưu Tống niên hiệu Thái Thủy có Ngài Thích Huệ Quả chùa Ngõa Nghi tại Dương Châu, lúc trẻ tụng Kinh Pháp HoaKinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa, bổng nhiên thấy có một con quỉ xuất hiện chỗ nhà xí, Ngài thành kính nói rằng: 

- Ngươi trước kia trong tăng làm Duy Na không đúng như pháp bị đọa địa ngục, nay sanh làm quỉ thích ăn phẩn nhà xí. 

Pháp sưlòng từ bi xin mong cứu giúp hộ. Truớc tôi có 3000 quan tiền chôn dưới cây thị, mong Ngài lấy lên làm phước.

Ngài Huệ Quả bảo chúng đào lên quả nhiên thấy tiền, rồi cho tụng Kinh Pháp Hoa, thiết lập hội thí. Đêm mộng thấy con quỉ hiện ra nói: “Đã được thoát khỏi khổ báo xưa” rồi biến mất.

Ngoài ra, như chư tăng tụng Lương Hoàng Sám đều nghiệm thấy có báo rõ ràng. Người phụ trách vai trò này phải xét cẩn thận. Ngoài các phần vụ khác nêu rõ ở đây cần phải biết.

Thanh Chúng gồm trong ngoài, mà bên trong là giữ oai nghi, ngoài nhà gọn sạch, hết thảy chiếu theo nội quy, áp dụng tùy chúng bàn công việc sao cho thích hợp.

Chứng nghĩa ghi rằng: Đại bộ thành Phật, làm Tổ đều do từ nơi Thanh Quy thiền môn mà ra. Xưa qui định các công việc trong ngoài, không chỉ một việc tham cứu. Nay tuy không hiếm người nhưng chỉ nhận người phát tâm, tu tập đạo giác ở chùa. Tọa hương, an cư, giải hạ, các công việc chùa không một mảy may phiền toái mà chỉ muốn mọi người làm xong phận sự. Ôi! Đây là trường chọn người làm Phật, làm chúng thanh tịnh phải như thế nào để có sự phấn khởi chứ? Nếu dựa nơi chùa viện làm chỗ lánh việc đời quả thật là đáng tiếc; thậm chí kẻ ẩn nấp an nhàn không chịu bị ràng buộc (không theo nội quy) cũng thật đáng thương xót! Song Ban Thủ chúng kinh nghiệm phải tùy nghi thường chỉ chỗ mê không được quấy nhiễu làm động chúng; cũng chớ nên gượng ép nhận công việc để làm hại sơ tâm. Phần nhiều tụng Kinh sám để giữ vững chánh niệm, nếu công phu ngưng trệ lâu ngày là không thành. Đến như đồ dùng bên ngoài nhà, phàm của Tam Bảo nên bảo vệ, không được dời đổi, dấu cất chỗ khuất, có cất dấu phải bạch trước cho chúng biết.

Thiền Đường Hương Đăng: Đốt nhang, cúng nước, mồi đèn, tắt đèn, tan lớp học, lúc đại chúng lên chánh điện, quét tước, lau bàn, thầy quản lý lo hành lý, 2 bửa cháo cơm quá đường; nửa tháng đến kho lấy hương đèn, dầu, giấy. 5 ngày nhận giày rơm, nồi nấu cơm; kỳ thất chưng trái, tham phóng, tập họp trên chánh điện, yết bảng…Những việc khác chiếu theo nội quy chúng. Coi về nước mỗi ngày sáng sớm: nước nóng rửa mặt, nước súc miệng, súc bình, nước dùng. Nên quét tước trước sau trên các thềm bậc và vặn vòi nước nhỏ để rửa mặt v.v.. không phí phạm nước. Trong chùa có việc cùng nhau giúp sức. Đốt đèn tham phóng, điểm tâm, thâu cất đồ dùng mọi việc v.v…Lúc rảnh, cắt cành dương, thỉnh thoảng dọn dẹp liêu chúng. Buổi sáng, trưa, cúng xuất sanh ở trai đường, chiều cúng thí thực nơi chánh điện. Ngoài những việc trên, chiếu Nội quy trong chúng thi hành.

Trở lên là những việc của liêu thứ nhứt, thứ nhì là tịnh nghiệp đường. Xem chương đại chúng ở sau – ban chức sự giống thiền đường.

Chứng nghĩa ghi rằng: hương đăng, coi nhang đèn, nhưng chuyên trách là người của ban chức sự thiền đường. Nếu biết quán xuyến hết mọi việc lớn, chúng lý rất tiện làm việc chúng mà thực tế không có chỗ nào bị gượng ép cả. Song người làm việc này phải biết lo nước, đốt nhang, tận lực gia tâm. Quét bụi, rửa lau, sáng sạch mát mẻ để dứt trừ tâm duyên hẳn dứt cảnh, nơi động mà đạt được; tịnh thắng là công phu

Hầu Tổ kiêm ảnh đường lo hương đăng: Hầu phụng Tổ nên làm ảnh đường luôn thường quét dọn. Các việc cúng ngọ, vào bếp kho lấy đồ thức ăn; rằm, mồng một lấy hương đèn, dầu; sáng tối đốt đèn rọi đường. Cúng tháp Tổ khai sơn, hầu Tổ quỳ dâng các thứ: trà, quả, đũa, rau, đồ điểm tâm, nước sôi, cơm, trà xanh…những vật đặt cúng trước tháp, hầu Tổ châm trà. Phàm cúng giỗ chư Tổ, bạch trước với Phương Trượng có cúng ngọ. Cúng giỗ liệt Tổ niêm dán nơi liêu chính; hễ quên sót, lầm lộn ngày kỵ Tổ không thưa trình bị phạt. Người lãnh đạo trông liêu, Trụ Trì thuyết pháp v.v…như tiểu tham tại chánh điện. Nhịp 3 hồi khánh, đốt 3 nén nhang, Trụ Trì niệm hương, trải tọa cụ, lễ 3 lạy; thăng tòa thuyết pháp, đại chúng lên điện cúng ngọ. Cúng giỗ, quét tháp, tiểu tham các việc nên chuẩn bị trước: lư nhang, đồ cúng, 2 tay bưng nâng cao đi trước Trụ Trì.

Chứng nghĩa ghi rằng: người xưa gần thiện tri thức phần nhiều ở hậu liêu, vì trưởng lão bình thường tiếp xúc người với lời thích nghi nên ở sát bên cạnh không rời để tùy nghi cắt đặt việc làm. Xưa Nam Tuyền sắp xếp tới ngày thết trai đãi Mã Tổ.

- Hỏi: Mã Tổ đến có không?

Động Sơn đáp: đợi có bạn liền đến.

Thị giả Vân Cư cầm đèn tới thấy bóng trên tường. Ông tăng hỏi 

- 2 hình giống nhau là như thế nào?

Vân Cư đáp: một cái là bóng cái kia là hình. 

Nay đang hầu Tổ, đây có phủ nhận tánh lanh lợi chăng?

Quy Sơn hầu Bách Trượng, có lần Bách Trượng bảo:

- Con lại lò bươi xem có lửa không?

- Bạch, không có lửa, Quy Sơn đáp.

Bách Trượng bươi sâu được chút lửa, đưa lên hỏi:

- Chứ cái gì đây?

Quy Sơn liền ngộ.

Nay trong lúc đốt nhang có nên nhanh nhẹn đáp phủ nhận chăng?

Ký Lục lo việc bên trong (nội tự), thư ký lo việc ngoài (hành chánh). Phàm có các việc như tiểu tham, lên chánh điện, vào thiền đường v.v...viết bản thông báo niêm yết ngoài cửa sơn môn. Mời Phương Trượng thuyết pháp, viết câu pháp ngữ (lời dạy ngắn gọn ý nghĩa) dán lên bảng. Ban nầy lấy giấy bút ghi lại bài pháp; mỗi việc đều do ban lo. Cho nên lời ngữ lục (lời dạy) của trưởng lão Hoà Thượng phần nhiều đều do tay Ban Thủ ghi. Chức vụ này nên cân nhắc kỹ, mời người đảm trách, vì rất là quan trọng.

Chứng nghĩa ghi rằng: ở tòng lâm tiếng văn hay chữ tốt do người đứng đầu là Ký Lục, vị này phải nhanh nhẹn, khiêm hạ, có phẩm hạnh. Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng: vào đời Đường có thiền sư Lỗ Chánh ở chùa Chí Tương núi Chung Nam, tu trong động 28 năm không tiếp xúc việc đời. Đệ tử là Trí Hiện vâng lời Thầy trước thuật gương tu mô phạm, tọa thiền tư duy. Trí Hiện cầm giấy đứng hầu bên, Thầy nói ra câu gì theo đó viết lại, đứng suốt ngày không ngồi. Một hôm bị đau nhức nên sanh buồn phiền, bất chợt ngã lăn ra đất. Sư Lỗ Chánh bèn nói:

Người xưa nhón gót (đứng chân hỏng lên) 7 ngày được. Nay Ông mới đứng chưa lâu đã ngã qụy, tâm yếu đuối thế!

Ôi, cổ nhân quên mình vì pháp, cung cách như thế, là vai trò của Ký Lục, ta há không được vậy sao?

Y Bát: Phận sự Giám Viện lo việc ngoài, trong lo y bát, đảm trách việc Tam Bảo cho trang nghiêm. Các đồ pháp khí, vật dụng trông coi cử người lớn tuổi, tâm phải chín chắn, gặp việc biết ứng phó ngay, ngỏ hầu giữ trên dưới điều hòa trôi chảy. Cho nên người bộp chộp hay câu chấp không thể dùng được.

Liêu phòng quy định 7 điều nên ghi nhớ kỹ lưỡng như sau:

1. Đồ pháp khí trang nghiêm nên lấy ra, cất vào phải nhẹ tay cẩn thận

2. Tiền bạc thu chi theo sổ sách mỗi tháng kiểm toán 2 lần

3. Trái cây, thực phẩm nên quí tiếc cất giữ cho tinh khiết

4. Trụ Trì đi xa, mọi việc trong ngoài phải để ý lưu tâm tới

5. Khách đến muốn gặp Phương Trượng, cần biết tên và hỏi việc gì; đã có Tri Khách giải quyếtGiám Viện quyết định

6. Tiếp đồng liêuhành giả phải đàng hoàng nghiêm chỉnh, không được nói cười đùa giởn thô tháo

7. Vật dụng ở phòng khách xử dụng hay cất phải có chỗ thích hợp không để tổn thất, hư hao.

Ngày… tháng… năm… Phương Trượng ấn ký.

Chứng nghĩa ghi rằng: y bát là người tâm phúc của kẻ xuất gia, đi đâu phải mang theo bên mình (y pháp bất ly thân), vật nâng thay vai trò nặng nề của Trụ Trì. Vì uy tín Trụ Trì nên tiền của tổn thất (hao hụt) hoàn toàn do vai trò này (Giám Viện) không thể không cẩn thận.

Sách Chích Cổ ghi rằng: thầy Thạch Song Cung đạo hạnh sáng ngời, đặc biệt có tài, nương theo học Thiên Đồng Hoằng Trí lâu ngày, làm nhiều việc quan trọng rất cẩn thận, lịch lãm; không chịu ra ứng thí. Khi về nhà (làng) mẹ hỏi: 

- Ông là người chủ sự, đâu không hiểu rõ nhân quả mà sắp chôn tôi xuống đất vậy? 

Cung nói:

- Con đối với của Tam Bảo một sợi tóc cũng không khinh thường. 

Không đáng suy nghĩ sao? Ôi! Lãnh phần trách nhiệm này một sợi tóc không khinh thường, đây quả không hổ vậy.

Thuốc thang là bên trong lo về thang dược, bên ngoài thuộc phần điển tòa; hợp thời cung cấp đúng mực. Hai bên ứng tiếp lo liệu an ủi khuyến khích hành giả. Chức vụ này nên giao người cần kiệm đảm trách mới thích hợp.

Thị giả nghĩa là theo hầu có chung và riêng. Thị giả chung từ việc đốt nhang đến hầu các bậc thánh tăng tôn túc làm hết phận sự; còn riêng là hầu thầy Phương Trượng Trụ Trì để khi cần giúp đỡ. Mỗi ngày hầu Phương Trượng tại liêu, phòng giảng pháp, điện Phật, thay nhang, thay nước, lau bàn, quét dọn hết thảy sạch sẽ, rồi đứng hầu Thầy. Nước tắm, châm trà, giặt giũ quần áo, thay giày, sớm tối thăm hỏi, hầu lúc đi khi về, làm mọi công việc lao nhọc, trước hết phải tỏ lòng hoan hỷ vâng phục. Khách đến châm trà, cúng xuất sanh lúc thọ trai; hữu sự tới phòng khách làm việc. Thị giả như người con hiếu thờ cha mẹ mới phải phép. Công việc này không nên giao cho người quá trẻ mà phải là người trưởng thànhý tứ mới chu toàn được.

Chứng nghĩa ghi rằng: xưa nay hầu hết những vị thầy lớn tuổi đều có người hầu; trước hết phải ở bên cạnh thay thầy làm việc khó nhọc, nhẫn nhục làm việc mới có thể đạt được pháp vô đắc. Điều này có nghĩa là trọng pháp mà xem nhẹ bản thân, từ ngàn xưa đã vậy. Nơi luật tạngSa Di yếu lược có ghi đầy đủ rõ ràng. Ngoài ra, sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng, vào đời Đường Chiêu Hiền Thông một thời làm chức lục cung; nhân đến gặp Ô Sào thiền sư xin xuất gia học đạo. Ô Sào không chấp thuận, ông kiên nhẫn xin mãi mới cho xuống tóc; rồi làm thị giả hầu cạnh chuyên cần không rời thầy, trải qua 16 năm không được khai thị muốn bỏ đi. Ô Sào hỏi tại sao?

Trả lời

- Đi tìm các nơi khác cầu học Phật Pháp.

Ô Sào nói:

Phật Pháp ở đây cũng đâu phải thiếu. 

Liền lấy ngón tay nâng tấm vải lông lên thổi. Hiền Thông bổng nhiên đại ngộ, do đó hiệu là thị giả bố mao. Ngài Liên Trì nói: “Người ta chỉ thấy thị giả qua tấm vải lông liền đạt ngộ mà không biết qua 16 năm nhẫn nại với bao nhiêu chịu đựng lao khổ, há chẳng nói lên được sự ân cần lắm sao? Nếu nay gặp được minh sư là điều may mắn không thể tâm dao động mà đón nhận được.”

Hầu Thánh Tăng: trải giường, quét tước, dọn dẹp tòa ngồi, dâng trà, lau bụi, kéo màn, bưng cơm, hầu nước, đả thất, đáp ứng mọi việc, có mặt túc trực chờ có việc cần. Buổi quá đường lo cúng xuất sanh, dọn rửa sau khi Thầy dùng xong.

Trở lên bên trên là phần việc trưởng liêu có 8 mục, có đầy đủ như bảng niêm yết ở Thiền đường.

Chứng nghĩa ghi rằng, Thánh Tăng tức là trong Thiền đường nơi tôn trí tượng các bậc Thánh Tăng. Thiền đường xưa gọi là tăng đường, do chúng tăng cùng ở chung một nhà. Trong tăng đường có chỗ tôn trí A Nhã Kiều Trần Như đại thánh tăng. Việc hầu bậc thánh tăng, như ở thiền đường lo hương đèn cúng dường thánh tăng. Phòng, chỗ ở trụ trì kiêm việc trà nước, hương đèn v.v… nên gọi là hầu thánh tăng. Xưa nay thiền đường phần nhiều thờ Phật nên tượng thánh tăng đương nhiên không có. Nay đổi tên tăng đườngthiền đường, nhưng nghĩa 2 chữ thánh tăng không làm sai ý nghĩa

Trở lên hầu liêu có 8 việc nên tuân thủ quy tắc: Không được ở trước Trụ Trì kể lỗi người, không được cùng người đồng phòng cười giởn, không được biếng nhác lánh nặng tìm nhẹ. Ba việc này cần phải giữ gìn

Chích Cổ ghi rằng: riêng Phong Ấn ở với Tuyết Bảo có một thầy nhỏ tố lỗi của vị lãnh chúng. Ngài Phong Ấn nghe được quở trách hỏi rằng:

- Ông là sư tiểu có tâm bao dung - trên dưới thì được, ngược lại bươi móc lỗi người mà ở bên hẳn làm hư việc của Ta.

Bèn dùng gậy đánh cho; người đời nghe thế lấy làm thán phục.

Văn Hoằng Trí ở với thiền sư Thuần làm thị giả; trong tăng dùng lời bởn cợt mỉa mai; Trí bất chợt cười lớn. Sư Thuần đi ngang qua nghe được đến tối gạn hỏi, Trí nói “lỡ nói lời thô với chư tăng”; bị cấm không được cười lớn. Sư Thuần nghiêm khắc quở trách.

Lại nữa, thị giả Chân Như Triết tập ngồi thiền, cảm thấy khó khăn, lấy cây tròn làm đồ kê ngủ say làm rớt gây tiếng động, biết rồi đứng dậy ngồi ngay ngắn lại như cũ. Vì do dụng tâm quá sức. Triết nói: “đối với tôi, phần tuệ trí còn mỏng cạn, nếu không chuyên cần gắng sức e bị vọng (mê) nhiễm làm mê mờ, huống gì mộng chẳng thật mà an ổn lâu dài”. 

Ôi, đó là phần Tây đường bên trên xong. Hành giả tịnh nhơn, đây là 3 việc nên cẩn thận theo gương người xưa, 2 phần phụ Chương Trụ Trì trước.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26599)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28202)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29316)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33202)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21715)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30566)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31189)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37072)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32221)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27055)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20571)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22190)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23922)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22808)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23133)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30349)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30021)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23085)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22280)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21739)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28149)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19212)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20110)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30846)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41461)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32640)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19096)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33953)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24921)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23637)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25266)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27708)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24946)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23773)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58586)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23153)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20837)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28082)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28852)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19166)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24511)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21386)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23778)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28570)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29333)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17610)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 30962)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25269)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18909)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20074)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23898)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19000)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20093)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19998)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24794)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19374)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22525)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61739)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31079)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22065)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant