Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Về việc thế độ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13756)
1. Về việc thế độ

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập

Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa

Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Mục Lục 

1 Về việc thế độ 
1.1 Tuân theo 10 điều quy định như sau: 
1.2 Hưng Chánh biện tà 
1.3 Nền tảng 5 giới 
1.4 10 chi giới pháp 
2 Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện

3 Phụ Về Đàn Giới: 

3.1 Niêm yết thông báo 
3.2 Lễ vật cúng dường 
3.3 Dự định lập các ban kiến đàn rõ ràng
3.4 Dự định công việc giới đàn
3.5 Vị Phụ Trách Tác Bạch 
3.6 Qui Tắc Thọ Giới 
4 Bồ Tát tóm tắt có 10 điều giới: 

4.1 Luận chung nhị thừa: Đại ThừaTiểu Thừa
4.2 Tôn trọng đúng luận sự lầm lỗi: 
4.3 Tuân lời dạy cổ nhân
4.4 Cử xứng người đức độ
4.5 Hòa chúng thanh tịnh nơi tịnh đường: 
4.6 Khiêm nhường kính trọng pháp Đại thừa, Tiểu thừa
4.7 Hợp đồng giản dị, có 5 loại giản dị như: 
4.8 Vâng pháp thính giáo
4.9 Giới thành tựu hợp pháp
4.10 Nghi lớn nêu ít dụ: 
5 Mười Quy Tắc Bố Tát 

5.1 Luật Thiện Kiến 
5.2 Lược rõ pháp Yết Ma sám hối
5.3 Tăng làm pháp yết ma tụng giới: 
5.4 Lại nói rõ pháp tăng lược tụng giới. 
5.5 Pháp đối thủ yết ma tụng giới: 
5.6 Tâm niệm pháp yết ma tụng giới: 
5.7 Luật Tỳ Kheo bày đúng chỉ sai: 
5.8 Tăng Bố Tát làm phép yết ma tụng giới: 
5.9 Luật Bồ Tát nêu đúng chỉ rõ sai: 
5.10 Phụ: hai chúng tại gia Bố Tát
6 Năm thiên sáu tụ giới: 

6.1 Năm thiên là: 
7 Hộ giới: 

8 Đạo cụ

9 Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na 

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

Luận rằng, nước trở lại hư không, cây thuộc về rừng rậm, tòng lâm là nơi tập họp đông tăng chúng vậy. Ngày nay nói về chỗ rộng lớn, có số chúng đông tới cả trăm, nghìn người phải cần kho chứa, chỗ nấu nướng, bếp núc; cũng như chỗ chúng ở, nơi mà 4 phương quy tựu về. Nếu đã có nơi ở cố định rồi phải làm gì đây? Bởi vì Phật dạy con người xoay vần trong 3 cõi, trôi lăn theo dòng sanh tử, mà nghĩ cách dứt khổ cho chúng sanh được an lạc. Phật dạy môn đồ lấy từ bi giáo hóa hướng thiện nhân sinh. Tuy không phải hết thảy đều tuân lời Phật dạy, nhưng tâm ảnh hưởng nơi đạo cũng đủ cho ta nương tựa. Lại vì đạo tôn trọng đồ chúng nên thiết lập phòng xá làm nơi cư trú yên ổn, cũng như thâu góp lúa gạo để đủ trong việc ăn uống. Dù phải tiếp xúc mới có, nhưng chỉ sợ bất cập không vì chúng mà nỗ lực. Đã vậy thì dù chỉ thước đất, một đấu thóc vẫn có sự tranh chấp phức tạp. Há đem cái ngu riêng mình mà gán cho số đông chúng ư? Đó là những bửa ăn, do vì chúng ta ăn, nơi ở ta cần. Việc ăn của ta như thế, việc ở như thế, thật quả làm sao dứt đây!
 
1.1 Về việc thế độ 

Một số quy tắc thế độ (cạo tóc): nhận người xuất gia như dưới đây, đại khái phân làm 4 phần:

A- Tuân theo người quy định

B-Luận chánh biện tà

C- Nền tảng 5 giới

D- Quy tắc 10 chi.

1.1.1 Tuân theo 10 điều quy định như sau:
1.1.1.1 Giới đức tuổi hạ vị thầy: 
Giới đức tuổi hạ vị thầy cần có đầy đủ 5 đức[1] và 2 nhiếp hoá[2] để người nương tựa, phải đủ 10 tuổi hạ. Đồ chúng không dễ dưỡng thành nếu đứa trẻ còn bú sữa chưa dứt không nhận, bảo đảm nhất là người tuổi đủ khôn lớn. Luật Phật dạy rất nhiều, làm Thầy đâu có dễ? Y cứ theo luật tạng phần sau, phần thọ giới kiền độ[3] lúc các Tỳ Kheo chưa đủ 10 hạ đã độ người mà không biết rằng luật dạy phải mãn 10 tuổi hạ mới hợp pháp; thật quả là không phải phép! Đệ tử không vâng lời dạy, oai nghi chưa am tường, nên chúng Tỳ Kheo đưa ra bạch Phật.

Phật dạy: độ tăng và cho người thọ cụ túc (tỳ kheo) giới, phải bạch 2 lần yết ma giữa chúng. Người xuất gia phải ra giữa trước tăng trịch áo bày vai bên phải, bỏ giày dép quỳ gối sát đất chấp tay lạy chư tăng 3 lạy chí thành cầu xin (cầu giới). Nếu không theo cách này là không còn pháp nào khác; cho chí y thực cũng đều tuân hành. Tăng nên nói rằng: “Đại Đức thôi đi, cẩn thận chớ độ người, nếu có trí huệ. Ngoài ra, lấy 2 việc nhiếp phục là: tăng phải nhóm họp và phép độ người; bạch yết ma 2 lần. Nên biết rằng làm Thầy người hẳn tuân lời Phật dạyquy tắc.

Vị Thầy muốn độ đệ tử mà không khâm thừa lời dạy của Phật, là chưa hiểu trách nhiệm và bổn phận làm thầy. Cũng như không theo quy tắc làm sao đủ cơ duyên hướng dẫn đồ chúng trong việc thực hành giáo pháp. Cho nên tuân lời Phật dạy và pháp, toàn bằng vào nhẫn nại của vị tăng. Trong luật đâu chỉ có việc truyền giới cụ túc mà còn tuyển chọn người, tức vị thầy thế độ (y chỉ) cũng phải biết điều này. Vì không cản trở chí nam nhi thành là pháp khí. Nên nói ân thầy (sư) to lớn, công dạy dỗ (pháp nhũ) khó đền là đây vậy.

1.1.1.2 Cơ duyên chọn người tín thành:
Sự nghiệp xuất gia không phải tầm thường, hẳn người phải có lòng tin kiên cố mới có thể hoạch định nhập đạo. Và ngoài ra, văn từ, đức hạnh cũng phải cần thiết trong việc học hỏi; huống nữa học giới - định - huệ há không thỏa chí trượng phu sao? Người mà niềm tin không vững, xuất gia chẳng lo nghĩ tới đạo. Thân tuy như con giòng họ Thích (xuất gia) nhưng tâm duyên thế tục. Tới khi đầu bạc theo bóng quang âm, đành ngồi đợi già chết. Buông xuôi lãng phí như thế hoàn toàn không đạt phần nào lợi ích cả. Vì thế, người cầu xuất gia trước hết biết rõ nhân địa, chí hướng quyết địnhthệ nguyện kiên cường. Vị Thầy, phải trắc nghiệm nhiều lần làm sáng tỏ mới có thể hẹn kỳ xuống tóc. Nếu người căn cơ thấp kém nghĩ thương muốn giúp đỡ, tạm gởi một nơi âm thầm tu tập để dò xét, theo dõi chờ một thời gian cho lòng tin thêm vững. Lúc đó việc khẩn thiết cầu xin xuống tóc vẫn chưa muộn. Vì thế, cần nhất thầy thế độ phải có cặp mắt tinh vi vừa trông một người là thấu hiểu, còn với chúng đông thì sao?

Bồ Tát Mã Minh nói rằng: Thầy và đệ tử phải hiểu tánh tình nhau, nếu trước không quán xét kỹ hẳn phạm tội vượt pháp.

1.1.1.3 Xin phép tăng xuất gia:
Tư cách Thầy trò đủ nhân duyên hội tụ, làm lễ xuống tóc chờ hợp thời, dạy dỗ tùy căn cơ, ứng dụng lại có khác. Nếu ở một mình không có bạn bè, đúng pháp ở với Thầy. Ở riêng hay sống chung với chúng, cũng phải dạy luật lệ phân minh. Y như trong luật, khi các Thầy tỳ kheo muốn độ người mà cho ở chung trong chúng gồm những người vô tình thân cận chất vấn đủ điều. Sau bèn thấy đệ tử cạo tóc làm tăng vào làng khất thực nên sanh tâm hiềm hận. Phật biết quở rằng: người cạo tóc xuất gia nếu muốn ở trong tăng già lam phải bạch cho chư tăng biết trước. Nếu tăng không hòa hợp, có thể dè dặt với lời khéo cho chúng biết rồi sau mới cạo tóc. Nếu chư tăng đã hòa hợp chỉ bạch một lần là xong, kế đó mới xuống tóc.

Thế nhưng ngày nay, tòng lâm tạp nhạp lẫn lộn, độ người không theo tiêu chuẩn, còn mong gì tuân giữ luật tắc? Thật là đời mạt pháp, khéo lắm mới có thể làm cho chánh pháp tồn tại. Như trên đã nói, bạch yết ma một lần pháp không hữu hiệu mà trong nghi thức dưới đây nêu rõ.

1.1.1.4 Giúp ngăn việc chê trách tỵ hiềm:
Mối giềng bản thể của tăng là thanh tịnh, trong giữ chí đạo thâm sâu không tì vết, ngoài nhóm chứa đức học thế pháp để củng cố Phật pháp, ắt do xuất gia thương giúp người tại gia. Nếu chỉ biết dẫn dắt độ người thoát tục xuất gia mà không khuyên phép từ cha mẹ, quốc vương thì nhận đủ lời chê trách của thế gian. Giữ mình làm tăng trong đạo phải làm gì, trong tăng lợi ích gì? Cho nên gặp người chức vị, kẻ sang, con nhà danh giá (vọng tộc), lễ Thầy cầu được độ, muốn làm Tỳ Kheo (tăng). Trước hết phải khéo hỏi cặn kẻ, chính xác để mọi việc được sáng tỏ. Nếu được song thân cho phép, thoát mọi ràng buộc thế trần mới có thể tiến lên 4 cấp từng lầu, nhập vào tăng đoàn giữ 6 phép hòa kính được. Lúc này cần phải làm là vọng hướng lên không trung bái tạ 4 ân: cha mẹ, quốc vương, ân thầy, ân Tam Bảo. Đây không ngoài Phật pháp mà soi tỏ thế pháp. Nếu hỏi đương sự, duyên trần chưa dứt, theo lẽ nên khuyên quay về nhà. Tuy hứa nhận xuất gia học ba tụ giới, nhờ giới sanh định, định phát huệ để tu hành mới có thể được. Còn người tại gia giữ 5 giới không lìa pháp thế giankiến lập Phật pháp. Phương tiện giúp đời như thế cũng làm phát huy Phật pháp

Y cứ theo luật, lúc bấy giờ Vua Ba Tư Nặc có vị đại thần vạm vở tự ý vào chùa xuất gia mà không xin phép Vua; được một Thầy Tỳ Kheo thâu nhận. Sau Vua biết được ra luật nghiêm cấm (quan chức đi tu không xin phép). Ngoài ra, các Thầy Tỳ Kheo phần nhiều độ các đồng tử dễ thương vào giòng họ Thích. Có người tâu Vua Tịnh Phạn nhờ bạch lên đức Thế Tôn. Cha mẹ phần nhiều nuôi dưỡng cho bú mớm, săn sóc đợi tới lúc con trưởng thành muốn được lợi lạc: phụng dưỡng hầu cận cha mẹ, kế thừa giòng giống không tuyệt. Mong Phật ban lịnh cho chúng tỳ kheo, không nên cho trẻ cạo tóc xuất gia khi không được sự đồng ý của cha mẹ. Do nguyên nhân đó, Phật ngăn không được thâu nhận các bậc vương thần, đồng ấu xuất gia mà không có phép của Vua quan hay cha mẹ. Nguyên bổn còn dẫn luật Tăng Kỳ nêu ra 4 hạng vương thần hay quan chức; nhưng xét thấy không cần thiết nên lược. Riêng con cũng có 3 loại: Con ruột cha mẹ sanh. Con nuôi, được nuôi dưỡng từ nhỏ, dưỡng tử nương tựa làm con.

Con ruột tuổi đồng niên (đồng tử) xuất gia cho dù ở Trung Hoa hay các nước khác cũng không chấp nhận được, nhưng con nuôi có thể được.

Nếu dựa theo tiêu chuẩn trên, riêng hạng con ruột cũng có thể mở rộng 4 trường hợpphương tiện tế độ; Thánh hẳn cũng rủ lòng từ cho phép như: Cha mẹ còn đầy đủ nhưng vì quá đông con không thể nuôi dưỡng hết. Cha còn, mẹ mất chỉ có một con, cha không săn sóc được. Mẹ còn, cha mất, gia đình đông con. Cha mẹ đều qua đời chỉ có 1 người con.

Trường hợp cha mẹ còn sống hay mẹ còn cha mất mà đông con. Nếu có một, 2 người đi phương xa (sống xa nhà) đủ tín tâm xuất gia, cầu thầy tế độ (xuống tóc). Lúc đầu mới đến dù chưa có lịnh của người thân vẫn được chấp nhận; nhưng sau đó đương sự lại trở về trình bày để xin phép xuất gia. Người thân hoan hỷ cho phép, thầy độ không có lỗi. Nhưng nếu cha còn, mẹ mất, lại con một, ý nghĩa cũng như trên. Như cả cha mẹ đều qua đời mà lại con một, đã không còn song thân để thưa trình, phát tâm tu mong báo đáp thâm ân. Trường hợp này 2 bên đều đồng ý việc xuất gia. Song luật Tứ Phần ghi rằng: song thân, nhà nước chưa cho phép không được phép cạo tóc. Y cứ luật Tăng Kỳ ghi, quần thần lựa chọn mới quyết chí xuất gia. Phàm vị minh sư hiểu biết luật phải khéo cân nhắc chớ nên mở, ngăn (khai-giá) tự ý sái luật.

1.1.1.5 Tôn trọng già, trẻ:
Người xuất gia khác thế tục là bỏ lợi lìa danh; không phô trương giá trị mình mà chỉ trọng nơi đức. Những việc hầu thầy, công tác, phục vụ đại chúng, học tập, tụng kinh, tu thiền, quán tưởng… Nếu người nhỏ quá không am tường, còn lớn tuổi quá lại không kham nổi việc. Tinh tấn ắt muôn hạnh đều thành tựu; lười biếng hẳn trăm việc không xong. Y cứ luật Tăng Kỳ ghi rằng: người dưới 7 tuổi hoặc trên 7 tuổi mà hiểu việc tốt xấu; cũng như quá 70 hoặc chưa tới 70 mà còn mạnh khỏe có thể độ cho xuất gia được. Như dưới 7 tuổi hay trên 7 tuổi mà chưa biết việc tốt xấu, cũng như quá 70 hay chưa tới 70, yếu đuối đứng ngồi cần người giúp đỡ là không được phép xuất gia. Như gỗ mục không thể khắc chạm làm đồ gì được. Ôi! thời nay đương buổi mùa thu lời Thánh huấn nhạt mờ, pháp tu chân chánh bèn thành ngăn trệ! Hoặc vì công việc khiến nên người không có tóc khó phân già trẻ; hoặc vì bị cảnh nghèo, xuất gia không vì sự tu hành mà thậm chí họp lại để dưỡng già, mượn Phật pháp để an thân. Lạm dụng mặc áo nhà tu, tranh cải lấn lướt chúng. Hạng người như thế căn tánh đã chẳng phải xứng đáng. Bọn họ quả thậtvi trùng trong thân sư tử, làm sao còn chia liêu phân phòng; chỉ ở chợ nương thành thôi. Thích nuôi, yêu mến trẻ nhỏ, ưa gần gủi thân thiện bọn nhóc tì; không thực tâm cùng tấn tu. Chưa am tường việc Sa Di (tức từ) đã muốn lên cao lại rớt xuống. Bỏ khổ vào khổ, những kẻ hảo tâm xuất gia là vì sanh tử, là sự may mắn gặp người đồng chí hướng xuất gia đúng luật.

1.1.1.6 Ngăn phòng độ người vượt quy định:
Như trên đã nêu rõ về người phát tâm xuất gia. Ngoại đạo xuất gia nên tùy nghi châm chế làm cho tà độc phải nhổ ra hết, mới uống nước cam lồ được. Kiến chấp chưa trừ, chánh tín khó phát sanh. Như vẫn theo thói nhiễm lo sợ ngoại đạo mà theo Phật xuất gia rồi phá hoại Phật pháp, là vượt ngoài sự tế độ cũng gọi là phá nội ngoại đạo. Y cứ theo luật có phái tu lõa thể Ni Kiền Tử[4] khéo giỏi luận đạo lý; gặp Ngài Xá Lợi Phất chất vấn thâm nghĩa, họ không thể trả lời được. Nhân đó, họ xin xuất gia làm Sa Môn và được cạo tóc, thọ giới Tỳ Kheo. Sau khi được mặc áo cà sa, họ lại nhập bọn ngoại đạo trở lại. Chúng tỳ kheo đem việc đó bạch lên đức Phật. Phật dạy: “Chấp thuận cho phép ngoại đạo nhập vào tăng đoàn cùng ở chung mùa an cư tháng tư, nên bạch 2 lần yết ma. Như trong lúc ở chung mà dấu pháp ngoại đạo, chỉ trích, chê trách việc bất thiện; chính họ cũng chỉ trích châm chọc ngoại đạo không kém”. Nghe người hoan hỷ dùng đức tán thán Tam Bảo, bọn ngoại đạo cũng khôn khéo hoan hỷ tán thán. Như thế mới có thể cho thọ giới làm tăng được. Nếu như họ vẫn giữ thói quen ngoại đạo và pháp thế gian, nghe nói sự nghiệp ngoại đạo bất thiện, sự nghiệp Tam Bảo thiện lành; họ lại nổi sân hận hiện lên nét mặt không hoan hỷ; người như thế không nên cho thọ tỳ kheo làm tăng. Song ngày nay ở Trung Quốc dù chưa có đồ đảng của lục sư ngoại đạo luận tà thuyết, hiển điều quái dị dẫn dắt làm chướng ngăn đạo pháp; vẫn không phải không có 5 bộ 6 sách của phái Bạch Liên, mờ ám thu nạp tuyên truyền làm mê hoặc nhân tâm. Do tệ hại đó đưa lại làm tà phong lan rộng từ thành thị tới thôn quê đều bị ảnh hưởng. Nên tuân theo lời Thánh khéo lưu tâm bảo vệ để cho đạo pháp trang nghiêmtồn tại hợp trào lưu tiến hóa của xã hội. Đó là trách nhiệm và bổn phận người xuất gia không nhỏ vậy.

1.1.1.7 Cứu giúp vô tư:
Người xuất gia cắt ái, người tại gia còn tình; giải thoát đạt đạo không đứng trên nhơn ngã, không tranh biện pháp môn, dứt hết chỗ thân sơ. Do vậy La Vân lễ Thu Tử (Xá Lợi Phất) làm thầy; Khánh Hỷ (A Nan) bái Thái Thục làm mô phạm. Con đấng Pháp vương còn buông xả được như thế, huống gì Sa Môn đời sau lại không theo đó tuân hành sao? Do vì cách Thánh quá xa, con người phần nhiều do tình ái, hoặc vì 5 tà chấp nên cứ nơm nớp lo nghĩ đồ vật thiếu thừa; hoặc vì sống riêng một mình nghĩ tới thân già trơ trọi liền gấp gấp cạo tóc xuất gia; một hai chiêu nạp đồ chúng. Như vậy đối với Phật pháp thiếu đức huệ, làm sao kế tục duy trì cho được. Nghiên cứu nguyên nhân ấy lỗi do nơi chính ta, tự làm hại người khác thật là đáng lấy làm tiếc. Luật Tăng Kỳ ghi rằng: Tỳ Kheo không được có tâm vì mình mà phải độ người, phải niệm nghĩ khiến người biết nhân của mình để vượt qua; nên tu các thiện nghiệp để chứng được đạo quả. Việc này hẳn nghe ghi nhận, như mình không tự hàng phục mà muốn hàng phục người khác, chính mình không tự điều phục lại khiến người khác điều phục; ta không tự giải thoát lại khiến người khác giải thoát là không có lẽ đó.

1.1.1.8 Nền tảng đạo nghiệp:
Tại gia chìm đắm, u ám muộn phiền không tỉnh thức; xuất gia vắng lặng tuệ giác soi sáng tận gốc, vì gốc đó là giới-định-huệ do đây phát sanh. Định sẵn sàng thời hôn trầm chìm lắng, huệ sáng tỏ mê lầm đoạn dứt. Do vậy, bậc đại thánh lập giáo trước lấy giới luật làm đầu lại giới nhiếp độ 7 chúng dần lên tứ thánh quả[5]. Chân đế-tục đế tuy khác, nhưng nền tảng không hai. Tát Bà Đa luận rằng: nếu không thọ 5 giới không được thọ 10 giới, không được thọ giới tỳ kheo. Nếu không thọ 3 loại giới như thế không được thọ giới Bồ Tát. Trong luật Ngũ Phần Phật dạy Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La trước khiến truyền 5 giới Ưu Bà Tắc[6], sau mới cho cạo tóc xuất gia truyền 10 giới Sa Di. Nên biết rằng thềm thang có 4 bậc, chỉ cho người hành trì không lẫn lộn để ứng dụng vào 2 thời: sáng và chiều, phân minh giữa chân và tục, luận người xuất gia, nếu chưa am tường giới phẩm, thân tuy xuất gia cũng chỉ là hình giống như Sa Di; hẳn phải cạo tóc theo thầy thọ giới mới thật sự xuất gia đúng pháp, gọi là Sa Di. Sơ sài giới luật chưa đủ thanh tịnh, hình thể là bạch y không đủ xứng làm bậc phước điền, bốn sự cúng dường[7] khó mà thọ nhận. Giả sử không lo tu tập thì ba cõi khó mong thoát khỏi. Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi rằng: “mặc dù đa trí thiền định phát nếu không nghiêm trì giới luật cũng rơi vào tà ma ngoại đạo”. Cho nên nói giới là nền tảng, phàm người học Phật, há khinh bỏ mà không tin thọ giới hay sao?

1.1.1.9 Khổ công dạy khuyên hành giả:
Do vì thân tâm đắm nhiễm ngũ dục không thấy khổ nhọc, tiếc nuối hình vóc do thói quen lâu đời, say theo si mê thế tình. Nên biết rằng những sự vui thú ở thế gian đều là nguyên nhân của khổ; xuất gia tu khổ hạnh hẳn là quả của an lạc. Luật dạy rằng: nếu khởi sự muốn xuất gia, trước hết vì người xuất gia nói những việc khổ như: việc ăn uống, sự cư trú, ngủ nghỉ, học nhiều

Nếu thông suốt đó mới xin thầy xuống tóc, còn nghi ngờ không cho thọ giới xuất gia. Vì làm thầy độ người trước phải y theo luật khuyên răn, xem xét căn cơ mà sách tấn. Vốn biết vạn sự khởi đầu nan, lúc đầu chẳng dễ dàng đâu! Thí như người muốn mò tìm châu dưới đáy biển nhất định chẳng sợ nguy hiểm của gió lớn, sóng to, huống gì cầu Phật đạo lại có thể sợ khó, khổ của việc tu tập sao? Ở đây không nhắc đi nhắc lại chỗ buông lung, lỗi lầm đã có thầy; qua lời chỉ dạy nhắc bảo tường tận. Đương sự phải phấn chấn tinh thần, ngõ hầu không tự cô phụ linh căn và cũng không trái với lòng từ dạy dỗ của thầy.

1.1.1.10 Thiết đặt nghi thức:
Có 2 phần: a/ do việc hay pháp, b/ thiết tòa an vị.

a. Phàm cầu nơi xuất gia phải chọn thế đất tâm hướng ra 4 bên, mỗi bên bước 7 bước rưởi, rảy nước thơm tẩy sạch dơ uế. 4 góc treo cờ, chung quanh treo phan, đàn tràng đã lập đủ các nghi, đó là nghi biểu pháp. Dùng hương bày tỏ niềm tin, nước biểu hiện sự thanh khiết. Không có niềm tin, thanh tịnh không thể trừ được những phiền não. Cần phải chọn chỗ đất tượng trưng 3 cõi, nên 4 góc cắm cây treo cờ, tràng phan tiêu biểu hướng tới địa thế, lần lượt đi qua hết chu vi, 4 hướng mỗi hướng bước 7 bước. Tượng trưng người xuất gia tu hành phải trải qua 40 vị hiền, phước huệ đầy đủ. Kinh Niết Bàn ghi rằng: đức Phật lúc đản sanh bước đi 7 bước xướng lên lời này: “Ta ở trong trời, người, a tu la là tối tôn, cao tột”. Xoay về hướng Nam đi 7 bước chứng tỏ Phật vì chúng sanh muốn làm ruộng phước vô thượng; đi 7 bước hướng Tây biểu trưng dứt sanh đoạn lão, và đây là thân rốt sau, hướng Bắc 7 bước tiêu biểu đã vượt qua các cõi dứt hẳn sanh tử, 7 bước hướng Đông chứng tỏ muốn làm người dẫn đạo cho chúng sanh.

b. Thiết tòa an vị: chính giữa đàn tràng đặt hình Phật Thích Ca Mâu Ni, hướng chánh đông đặt tòa ngồi Thánh tăng, hướng Tây tòa Hòa Thượng, hướng Bắc tòa Quốc vương, hướng Nam tòa của phụ mẫu. Mỗi nơi bày biện hương hoa, quả phẩm, đèn nến hiến cúng. Nếu gặp trời mưa hay những trở ngại khác không thể thiết lập đàn tràng lộ thiên được; có thể thiết trí tại giảng đường hay nơi phương trượng đủ 5 bàn hiến cúng tinh nghiêm không thể thiếu được. Nhưng đây là người cầu thế độ xuất gia, có nghĩa là bỏ nhà thế tục, vào nhà Như Lai; những phàm thường phải nghiêm túc, cái thể ông tăng mới tôn quí; một việc giản đơn mà người xuất gia xem thường. Do việc phát tâm hơn hết, nên hoàn toàn dựa vào các trợ duyêncần thiết vậy.

1.1.2 Hưng Chánh biện tà
Sở dĩ nói hưng chánh biện tà: ngay như một việc xuất gia là việc tinh tế hàng đầu như Phật quy định rõ, chư Tổ có quy tắc hẳn hoi. Đời sau do nhiều việc dần quên tra cứu luật, có một người ngoại đạo cầu xin xuất gia, một thầy tỳ kheo nhận cho thọ giới tỳ kheo; về sau y lộ hiện việc xấu, không muốn làm tăng nữa. Chúng tỳ kheo đem việc này trình lên Phật, Phật dạy: “Nếu muốn độ người, cho cạo tóc xuất gia, phải đặt tay lên đỉnh đầu đợi một lúc rồi hỏi rằng – ngươi có thể xuất gia được không - rồi mới vì đó mà xuống tóc.” Tiếng Phạn là Châu la, Trung Hoa gọi là Tiểu Kết hay còn gọi là đảnh hiệt (tóc trên chỏm đầu), có nghĩa lấy tâm điểm trên đảnh để lại một ít tóc lọn thành một chùm nhỏ. 

Luật quy định như Bách Trượng Hoài Hải thiền sư đời Đường biên soạn. Bởi vì đoái nghĩ giáo huấn tòng lâm chuyên tu mô phạm mà nguyên trước Thầy đã đính chính, tự thấy chỗ nghĩa lý đầy đủ. Về sau do trãi qua các đời bổ túc thêm vào đến đổi sự lý phần nhiều trái lời Phật dạy. Nếu chỉ nêu lên trong thiên Sa Di được thọ giới thôi, ở phần lược thuật cũng đã sai lầm giả trá, để chứng minh trong tương lai, Ngài nói rằng: chọn kỳ ấn định cho xuống tóc cách đêm trên đỉnh còn chừa lại một chỏm tóc. Hôm sau nhóm chúng thỉnh thầy khiến kẻ thế phát quỳ sát đất lễ lạy

Duy Na xướng lễ, đại chúng hòa âm; thần tiên, người đạt 5 phép thông tạo ra chú thuật khiến cho đương sự hổ thẹn giữ gìn những gì chưa biết hổ thẹn. Như Lai lập cấm giới mỗi nửa tháng tụng một lần đọc lên những công đức đã thuyết giới. Cúi đẩu lễ chư Phật, xướng tụng lời hòa hợp; cạo tóc vừa hoàn tất, áo cà sa mặc đắp lên đầu người thọ pháp. Lấy 10 giới tướng Sa Di ban cho cận sự nam giữ 5 giới, tức liền lãnh thọ giới luật thâm sâu; ắt hẳn không phải Tổ quy định nghi thức. Có chỗ cho rằng cách đêm xuống tóc, trên đảnh còn chừa lại một chỏm, hôm sau thỉnh thầy cạo cho chỏm tóc đó cũng lại là việc sai lầm. Nên biết việc cạo tóc đang diễn ra sáng hôm nay; theo lý không thể để cách qua đêm được mà phải ở ngay trong ngày xuống tóc. Mở đầu mình tự thỉnh thầy thăng tòa, nhẫn đến khai thị xong; lễ tạ vua, song thân hoàn tất, rồi lấy nước rảy lên tóc đương sự. Thầy vừa cầm dao đưa lên, trước tiên chừa chùm tóc trên đảnh, kế từ đó hớt xuống tóc chung quanh phía trên tới bên chùm tóc trên đảnh đầu, thầy bèn ngừng lại, dặn kỹ hỏi 3 lần; đương sự cũng 3 lần đáp mới cho xuất gia và cạo sạch chỏm tóc còn lại trên đảnh, trở thành là hình đồng Sa Di

Duy Na lại xướng tụng bài kệ quyển đầu trong bộ luật Tứ Phần thuộc về 186 câu; bài kệ trích 8 câu chót dùng cho lúc cạo tóc. Bài kệ này do Tôn Giả Ưu Ba Ly cùng với 500 vị tăng A La Hán trong khi kết tập tạng luật soạn. Trước tiên kính lễ Tam Bảo cầu sự gia hộ, tụng lời tựa nói sự lợi ích của giới thuộc quyển đầu. Vì lúc Phật còn tại thế lấy chánh pháp làm đầu mà giới luật là để nhiếp hóa chư tăng, khiến biết tàm quí giữ gìn đầy đủ phạm hạnh trong sạch. Thỉnh thoảng ngoại đạo bày ra chú thuật, dẫn dắt đi vào đường tà làm gia tăng tâm tham ái. Vì thế, Phật quy định Bố Tát[8] khiến các tỳ kheo mỗi nửa tháng tụng một lần, hòa hợp tại một chốn đúng theo lời Phật dạy. Nói giới tức là tụng giới vậy. Vị Thầy lấy bài kệ tụng giới Bố Tát này dùng vào việc xướng tụng lễ cạo tóc Sa Di, cũng lại là việc lầm lẫn nữa. Ngoài ra, cạo tóc xong đem 5 giới, 10 giới tướng đồng thời trao cho hành giả. Do vì chưa từng tham cứu trong luật Ngũ Phần, Phật cho người chưa cạo tóc xuất gia, trước nhất phải theo 5 giới Ưu Bà Tắc tại gia. Vì e đương sự có sự hối tiếc ngược lại, khiến y gieo trồng căn lành, một mực chí thành tin tưởng không thoái tâm. Tâm đạo phải vững bền mới cho xuống tóc, sau bèn trao cho 10 giới Sa Di. Cho nên không thể lấy 5 giới tại gia mà cho là đồng 10 giới Sa Di được. Hơn thế nữa, đã là người xuất gia hình tướng Sa Di không phải Ưu Bà Tắc như thế tục buông tuồng đụng đâu bàn chuyện đó, sự bàn luận nầy mới đáng nói. Luận về người phải có điểm hơn người, luận pháp là việc xuất gia không phải pháp Bố Tát (tụng giới), nên đây là một việc, nhơn và pháp là 3 việc đều xem thường trái lời dạy bậc Thánh, sai phạm không phải chẳng ít. Nay như ta phát tâm xuất gia cầu Thầy thế độ nên tôn trọng theo luật Ngũ Phần quy định, cũng như không nên xướng bài kệ tụng giới. Như người đã thọ 5 giới đến cầu xin xuất gia nên tôn trọng luật Tứ Phần, Tăng Kỳ, Thập Tụng… là những bộ luật căn bản, tức cho thọ Sa Di thập giới cũng không nhất thiết phải thọ lại 5 giới rồi sau mới cho thọ 10 giới mà sai lầm theo luật Ngũ Phần, nên biết luật quy định khó sửa đổi; quy định sai phải nghiệm xét kỹ lại.

1.1.3 Nền tảng 5 giới
Nền Thảng năm giới phân thành 10 tiết như sau: 

1.1.3.1 Hướng dẫn:
Phải xem kỹ luật để biết rõ việc gì nên làm, nếu đúng theo luật cho phép hầu như phải có lời cầu xin. Nay cạo tóc Sa Di dựa theo luật Ngũ Phần, Phật dạy, trước truyền 5 giới Ưu Bà Tắc, sau cho xuống tóc thọ 10 giới Sa Di. Phải nêu ra tiêu chuẩn trước, còn nghi cách thêm bớt tùy theo đó ứng dụng. Nếu có người phát tâm hứa xuất gia, kỳ hẹn như ấn định trước một ngày, Thầy Tri Khách nên sắp xếp cho người xin đến gặp Thầy Duy Na và các vị Thầy dẫn lễ; hướng dẫn đảnh lễ các Thầy 3 lạy rồi đứng lên quỳ gối bạch rằng:

- Con…(tên) biết thân là khổ, hiểu rõ đời đều là vô thường, khổ không, nên không dong ruỗi theo trần duyên, nguyện hướng về Phật đạo. Tâm tuy chưa thể thay đổi nhưng đối với thói quen chưa hề có, nay khẩn thiết cúi mong quý Thầy dũ lòng từ dạy bảo, phương tiện dẫn dắt cho con xuất gia học đạo, tu hành.

Thầy Duy Na đáp:

- Thật là lành thay! Ngươi đã nhập pháp môn, nghi cách chưa rành, nay tôi vì ngươi mà tác bạch lên Ngài Phương Trượng, một lòng chí thành cầu thỉnh. Ngươi nên thành tâm cung kính theo tôi, cùng đi lễ Hòa Thượng.

Người cầu xuất gia nghe rồi, lễ một lạy và đứng lên. Duy Na và Thầy dẫn lễ đi trước, người kia đi theo sau.

1.1.3.2 Lễ tác bạch
Các Thầy dẫn đương sự tới phòng Phương Trượng, đứng bên ngoài cửa, trước báo cho Thị Giả biết để mời Ngài tư thế chuẩn bị nghiêm túc. Hương hoa, đèn nến sẵn sàng tới thỉnh Ngài đăng tòa, kế đến 2 vị dẫn lễ tay nhịp khánh thỉnh Hòa Thượng ra khỏi phòng. Hòa Thượng ra xong, Ngài đến lạy Phật, niệm hương rồi vào chỗ ngồi. Duy Na xoay về Hòa Thượng lễ 3 lạy, quỳ gối chấp tay bạch rằng:

Nam Mô A Di Đà Phật, ngưỡng bạch Hòa Thượng, nay có Phật tử…. (tên và pháp danh) từng mong mỏi đức từ, hẹn kỳ thế phát, yểm tâm trần thế, đã quyết chí học đạo vững bền, nên nay cung kính đến trước điện đốt hương đảnh lễ, ngưỡng mong Hòa Thượng đại từ bi nạp thọ. Trước ban giới Ưu Bà Tắc làm cho đương sự từ cấp sơ cơ đây mà bước lên 4 cấp, kế sau xin được xuống tóc, đắp y; bỏ nhà thế tục để nhập chúng xuất gia, đi lại thắng lướt xông pha, vâng hành đúng luật, phàm tình không theo đuổi, chí nguyện hướng cầu.

Đoc lời tác bạch xong, lễ một lạy rồi đứng lên, lui ra trở về lại chỗ.

1.1.3.3 Thỉnh sư (nghi này không giống nhau):
Nghi thỉnh sư tùy theo giới trường, đàn giới mà có cầm hương. Nay Duy Na thay bạch, giới tử đứng ngoài cửa, chỉ chờ gọi mới vào gần rồi dâng 3 cây hương bạch Phật. Nếu giới tử đông cùng lúc nghe gọi tiến lên chỉ do một vị niệm hương; còn các vị khác đứng sang 2 bên. Đứng theo vị trí xong, Thầy dẫn lễ xướng rằng:

- Này gã nam tử, nay đã đầy đủ nhân duyên mà tới. Giới tử hãy bước lên, tới gần trước pháp tòa, chấp tay quỳ gối trang nghiêm tề chỉnh.

Lễ niệm hương: cầm 3 cây nhang lên khấn. Duy Na cử bài tán hương, đại chúng đồng hòa âm:

Phật quảng đại từ tâm

Độ chúng đức bi thâm

Chí thành thọ pháp âm

Tam Bảo niệm ân cần

Cầu thọ 5 giới cấm

Ngào ngạt hương diệu vân.

Dẫn lễ nhịp khánh đảnh lễ Tam Bảo 3 lạy, xong bảo giới tử quỳ ngay ngắn và chấp tay lắng nghe kỹ. Thầy Duy Na nói:

- Luận về người tại gia đầy đủ tín tâm giống như trong lửa vươn lên hoa sen; mang mái tóc quy y như trăng hiện trong nước. Nay ngươi muốn thọ 3 quy y và 5 giới, đây là nền tảng của xuất thế. Lẽ ra phải mời cho được minh sư để hộ trì cho giới đức căn bản. Nay vì ngươi mà đốt hương, trải tòa, cầu thỉnh thượng A hạ B đường thượng Hòa Thượng; vì ngươi mà làm Thầy truyền Tam quy năm giới. Lời thỉnh sư lẽ ra ông tự trình bày, nhưng sợ ông chưa quen, nay tôi chỉ ông phải đọc tên mình; còn những lời khác đều do tôi hướng dẫn như sau:

- Bạch Đại Đức một lòng thương xót, con pháp danh là… xin thỉnh Đại Đức làm Thầy truyền Tam quy, ngũ giới. Ngưỡng mong Đại Đức vì con làm bổn sư truyền Tam Quy năm Giới, con nương theo Đại Đức được thọ giới thanh tịnh. Xin thương xót, đoái xin thương xót, hết lòng xin thương xót con!

1.1.3.4 Thầy khai đạo: 
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

- Này thiện nam tử, ông đã chí thành 3 lần thưa thỉnh, nên tôi vì ông mà làm Thầy truyền 5 giới. Như những lời này ông phải lắng nghe, nguyên vì giới đức khó lường, đứng đầu vượt hơn tất cả, là quy luật của 5 thừa, chính là chiếc thuyền của Tam Bảo. Thiền định, trí huệ lấy giới đây làm nền tảng; Bồ Đề, Niết Bàn do giới làm gốc, phát ý hướng cao xa lấy giới đây làm tông yếu, giới là tiền đạo của sự dứt ác, mở đầu việc nhập đạo. Cũng như xây lâu đài trước nhất nền móng phải cho thật vững chắc. Nếu xây nhà không xây nền móng như gá ở hư không ắt không thành tựu. Kinh Di Giáo dạy rằng, nên tôn trọng giới luật như tối gặp sáng, như người nghèo được của báu; giới chính là gốc của sự giải thoát. Nếu người luôn giữ tịnh giới hẳn mọi công đức lành đều được phát sanh, nên biết giới là chỗ an ổn, chỗ phát sanh các công đức. Song giới có nhiều phẩm loại khác nhau. Nay ngươi cầu thọ 5 giới đây là đầu mối của việc hướng thiện, ra khỏi bến mê của khổ. Kinh Thiện Sanh ghi rằng: giới đây thật là khó đắc, vì là cội gốc cho giới Sa Di, đại giới tỳ kheo và giới Bồ Tát. Vì vậy, nay tôi truyền cho ngươi 5 giới Ưu Bà Tắc nên đem tâm cung kính giữ gìn, ngươi có thể y theo lời dạy mà thực hành không?

- Đáp: Con xin y theo lời dạy vâng làm.

1.1.3.5 Thỉnh Phật, chư Thánh chứng minh
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

- Này thiện nam tử, ngươi đã y lời dạy vâng làm rồi, ngươi muốn thọ 5 giới căn bản này, đúng ra phải tự kiền thỉnh Tam Bảo từ bi chứng minh, thứ nữa cầu chư thiện thần hộ vệ, nhưng vì chưa quen nên tôi nói thay, ngươi đứng dậy chấp tay nói theo tôi trong sự thành tâm quán tưởng: nhất tâm khải thỉnh, con pháp danh là …

Hòa Thượng đứng dậy niệm hương bạch thỉnh; Thầy Duy Na, Thầy dẫn lễ đồng hòa âm cùng đại chúng, nhất tâm chuyên chú một cảnh để được sự cảm ứng.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử… một lòng phụng thỉnh: Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Giáo Chủ cõi Ta Bà, đức Phật A Di Đà Giáo Chủ cõi Tây phương, đức Phật Di Lặc từ tôn sẽ hạ sanh tương lai, cùng hết thảy chư Phật khắp hư không pháp giới. Ngưỡng mong không quên bổn thệ từ bi chứng minh gia hộ cho con được thọ giới. (Thỉnh 3 lần mỗi lần xá 1 xá).

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử… một lòng phụng thỉnh: Hai thừa Đại, Tiểu, tạng luật Tỳ Ni, 5 thiên 7 tụ giới luật giải thoát, 12 bộ chân Kinh, giáo điển quyền thật, ly dục thanh tịnh, pháp bảo nhiệm mầu, tha thiết một lòng quy y đảnh lễ…

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử…một lòng phụng thỉnh: Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, hải chúng thanh tịnh, chư đại Bồ Tát, Ưu Ba Ly tôn giả, Tây Thiên, Đông Độ lịch đại Tổ sư truyền giáo Nam tông, chư đại luật sư, trung hưng luật sư Huệ Vân Hân công đại Hòa Thượng. Từ đây trở lui lại thỉnh đăng tòa đắc giới bổn sư Hòa Thượng: ngưỡng mong không quên bổn thệ soi chiếu hào quang chứng minh thọ giới.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, chúng con… một lòng phụng thỉnh: Trên hội quang minh, nhờ các vị trời: Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương, Thiên long, tám bộ, già lam Thổ địa, hộ giới thần vương, Kim Cang lực sĩ, u hiển linh kỳ, ngưỡng mong không quên bổn thệ giám sát đàn tràng hộ giới.

Như thế mỗi lần 3 lượt thỉnh, 3 lần cúi đầu cho tới khi Hòa Thượng ngồi xong; dẫn lễ xướng: “quỳ xuống, chấp tay chí thành lắng nghe…”

1.1.3.6 Sám hối:
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

Chuyên tâm nghinh thỉnh Tam Bảo chứng minh thọ giới rồi nay đây Tam Bảo đã dũ lòng từ phóng quang soi chiếu, như gương có đài lướt qua không thấy rõ, riêng sợ ngươi từ muôn kiếp đến nay tạo các ác nghiệp, bị chướng duyên giới không thể lãnh thọ được, nên gia tăng lòng tin sâu hướng trước Tam Bảo cầu xin sám hối. Ví như vết dơ dính áo liền đem giặt tẩy sạch, vị cam lồ tẩy trừ vật uế, lời sám hối ngươi vừa tự trần, e ngươi không quen, nay tôi dạy ngươi tự xưng tên mình…. 

Tôi đọc lời gì nên đọc theo để cầu xin sám hối. Bài kệ sau đây, Hòa Thượng đọc 2 câu, Dẫn Lễ hướng dẫn đương sự đọc 2 câu, cứ mỗi 2 câu cúi đầu xá 1 xá, đọc tiếng lớn rõ ràng như:

Đệ tử pháp danh… tên là… từ vô thỉ cho đến ngày nay hủy báng Tam Bảo, làm kẻ phá hoại Phật pháp, chống lại Kinh Đại Thừa, đoạn dứt tuệ giác, giết hại cha mẹ, làm cho thân Phật đổ máu, làm nhiễm ô chùa viện, phá phạm hạnh tăng ni; thiêu hủy tháp miếu, lấy trộm vật dụng của tăng. Khởi bao nhiêu tà kiến, bác không nhân quả, gần gũi bạn ác, phản bội thầy hiền.Tự làm, dạy người làm, hay thấy và nghe người làm tán đồng vui theo…Những tội như thế vô lượng vô biên, cho nên ngày nay con rất lấy làm hổ thẹn, chí thành tỏ bày cầu xin sám hối. Ngưỡng mong Tam Bảo từ bi gia hộ, phóng ánh tịnh quang soi chiếu thân con khiến cho các ác tiêu dứt, 3 chướng trừ sạch, hoàn lại tâm nguyên rốt ráo hoàn toàn thanh tịnh. (Sám hối 13 lần như thế).

Nam Mô Phổ Hiền Vương Đại Bồ Tát (3 lần).

Như trên đã tỏ trần sám hối, nếu thì giờ không có chỉ dùng 4 câu trong kinh bổn thôi. Xem phần chính bên dưới, hể thành kính 4 câu đủ tiêu trừ nghiệp chướng; còn như không thành dù có sám nhiều cũng khó hối cải.

1.1.3.7 Vấn già nạn (gạn hỏi trắc nghiệm):
Nạn ngăn chướng bổ đề tâm, Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

- Nay ngươi đã sám hối xong, tội lỗi về trước dứt sạch nên theo Kinh Thiện Sanh, trước hết hỏi 7 già nạn, sau mới cho ngươi thọ giới. Có hay không cứ thật tình trả lời, chớ nên che giấu.

- Hỏi: Ngươi có từng trộm cắp vật của hiện tiền tăng không?

(Nếu không, nên đáp không; giả như có nên đáp có, những câu sau đều như thế cả)

- Ngươi có từng hành dâm với nam nữ trong lục thân không?

- Ngươi có làm ô nhiễm phạm hạnh tăng ni không?

- Ngươi có từng thấy cha bịnh mà bỏ đi không chăm sóc không?

- Ngươi có từng thấy mẹ bịnh mà bỏ đi không chăm sóc không?

- Ngươi có từng đối sư trưởng bịnh mà bỏ đi không săn sóc không?

- Ngươi có từng sát hại chúng sanh phát bồ đề tâm không?

1.1.3.8 Thọ quy giới: 
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

- Này thiện nam tử, ngươi hiện sanh trong đời này không có 7 già nạn, thân tâm thanh tịnh, đạo quả mới hoàn tất được. Tôi nay cũng vì ngươi trước truyền Tam quy làm thể, kế tuyên đọc 5 giới để khiến giữ gìn những lời đã nói về 3 quy y. Luật Tát Bà Đa luận rằng: Tam Bảo là chỗ nương tựa, người muốn được cứu hộ không được vượt qua. Nên quy y Phật nương theo pháp thân, là nhứt thiết trí, đạt đến vô học, đầy đủ công đức, thành 5 phần pháp vậy. Quy y Pháp là nương chỗ tịnh xứ của tự-tha, là đoạn dục, ly dục, đạt đến Niết Bàn chân thật. Quy y Tăng là nương theo đệ nhứt nghĩa tăng, có nghĩa bậc hoàn hảo phước điền, có đủ công đức học và vô học. Nhưng Tam Bảo đây là chân tịnh đức dụng hay làm cho 3 nghiệp thanh tịnh, có khả năng ngăn dứt 3 đường ác, có thể phá trừ 3 chướng, không rơi vào 3 cõi hữu (chúng sanh), hay vượt thoát 3 cõi, hay dẫn tới chứng 3 thừa. Do đó Phật đạo lấy 3 quy y đây làm gốc, rộng ra chung cho các giới phẩm khác để thành tựu mọi công đức. Cho nên ngươi phải lấy ân trọng lòng từ hộ niệm khắp cùng pháp giới, hữu tình hay vô tình đối với cảnh bị duyên. Nguyện đoạn mọi điều ác, thệ tu tất cả điều thiện, phát nguyện độ hết chúng sanh. Nếu phát được tâm rộng lớn vô thượng như thế mới có thể lãnh thọ giới, đó là 3 quy y và 5 giới nói trên vậy.

Nay chính đúng lúc ngươi thọ Tam quy, là lúc cảm nhận thọ các giới thể. Ngươi nên chí thành quán tưởng, duyên cảnh phát tâm theo lời tôi mà thọ. Trước xưng danh tánh (nói rồi, đợi Hòa Thượng nói xong, Thầy Dẫn Lễ dạy giới tử nói theo; đọc từng câu không được sai trật) như sau:

Con pháp danh… tên là… nhất tâm quy y Phật, nhất tâm quy y Pháp, nhất tâm quy y Tăng. (Đọc 3 lần như thề, mỗi lần cúi đầu xá 1 xá).

Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

Trở lên 3 quy y đúng là nạp thể, nay thêm 3 kiết có nghĩa là phép yết ma, ngươi phải chí tâm nói lên theo tôi. Nhìn xuống đoạn văn đợi Hòa Thượng đọc một câu, giới tử nói theo một câu; căn cứ theo Kinh Thiện Sanh, đọc xong cúi đầu xá Phật-Pháp-Tăng 3 xá.

Con pháp danh… quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y các chúng ma Tự Tại Thiên v.v…Quy y Phật, bậc chí chân đẳng chánh giác, là bậc Thế Tôn của con, xin thương xót cho con.

Con pháp danh là… quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y giáo thuyết ngoại đạo; chỉ quy y 12 bộ trong 3 tạng mà Phật đã thuyết, cùng hết thảy Kinh điển, là chỗ tôn kính của con, xin thương xót cho con.

Con pháp danh là… quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y ngoại đạo tà giáo; quy y bậc tăng phước điền thanh tịnh, là chỗ tôn kính của con, xin thương xót cho con.

Sau đây là phần đọc các giới tướng, Hòa Thượng vỗ thủ xích nói:

Tôi đã vì ngươi mà nói rõ 3 quy y xong rồi, để có được thể của 5 giới, tôi lại vì ngươi đọc 5 giới tướng để làm cho ngươi biết tướng mà giữ gìn, hầu cẩn trọng bảo hộ giới thể.

Giới thứ nhất là không sát sanh, thứ hai không trộm cắp, thứ ba không tà dâm, thứ tư không nói dối, và thứ năm không uống rượu. Là những giới căn bản của Ưu Bà Tắc, ngươi có thể giữ gìn được không?

Đáp: Mô Phật, con có thể giữ được.

Này Thiện nam tử, 5 gìới đây là cội gốc của các giới, là thềm thang của việc nhập đạo. Đạt đến giải thoát chứng quả Bồ Đề khởi đầu từ giới không sát sanh cho đến giới thứ năm không uống rượu, ngươi có thể giữ đầy đủ được không?

Đáp: Mô Phật, con có thể giữ được đầy đủ.

1.1.3.9 Phát nguyện:
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:

Kinh A Hàm ghi rằng: đã thọ 5 giới rồi phải cần phát nguyện. Đầy đủ hạnh nguyện, phước và huệ mới thành tựu đạo nghiệp; cũng như cổ xe quí, nếu không có bánh xe cũng vô dụng mà thôi, vì không chạy được. Do vậy, nay tôi bảo ông, ông theo lời tôi nghĩ tướng Tam Bảo, đối trước Phật, chí thành phát nguyện, đọc pháp danh của mình, rồi Thầy bảo rằng:

Nay con là… chí thành phát nguyện: nhờ công đức giữ 5 giới đây mà không đọa vào 3 đường ác, rơi trong 8 nạn. Công đức giữ giới như ân ban khắp hết chúng sanh trong pháp giới đều phát tâm Bồ Đề đồng sanh về Cực Lạc; hoa khai thấy Phật, được nghe Phật thừa, mong Phật thọ ký. Nguyện trở lại Ta Bà hóa độ chúng sanh đồng sanh về Tịnh Độ, xa lìa các khổ, được sanh thượng phẩm hoa sen

(Đợi Hòa Thượng nói dứt 1 câu, giới tử nói theo câu đó, đọc 3 lần như thế và mỗi lần cúi đầu xá 1 xá).

1.1.3.10 Kết khuyên hồi hướng:
Hòa Thượng vỗ thủ xích nói:

- Này thiện nam tử, do ngươi có gieo trồng gốc đức trước nên nay gặp được duyên lành, dù cảnh đời xấu ác đủ 5 thứ bẩn trược mà vẫn sanh trong gia đình chánh tín, quy y Tam Bảogiữ gìn 5 giới, ưa thích phòng hộ cẩn thận không thể sai phạm. Như rồng giữ hạt châu nơi cổ, như trâu mao mến đuôi, như canh giữ đập ngăn nước không để rỉ chảy. Như bờ ngăn thành cấm không để cho người phá hỏng. Nếu phạm 5 giới trong đó 4 giới trước là giới trọng, như tử thi (thây chết) không dung nạp trong đại dương. Người phá giới, giới không dung, cũng không được thọ 10 giới Sa Di, giới tỳ kheo, giới Bồ Tát…Vì giới căn bản đã phá nên thiện pháp khó sanh. Nay ngươi có thể nhứt nhứt giữ gìn được không?

Đáp: Mô Phật, con y như pháp giữ gìn.

Hòa Thượng nói:

Ngươi đã như pháp giữ gìn, nên đứng trong hàng tăng, nay tôi vì ngươi mà cạo tóc. Từ ngôi nhà lửa nhưng dọn dẹp sạch đến được chỗ thanh lương, từ con đường mê mà biết quay về chánh đạo.

Hòa Thượng vỗ thủ xích, đứng dậy. Đại chúng chấp tay hồi hướng:

Nguyện đem công đức này

Ban cùng khắp pháp giới

Đại chúng cùng hòa âm

Niệm Phật trong nhiếp tâm…

Thầy Dẫn Lễ xướng cho giới tử lễ tạ chư giới sư 3 lễ. Xong đứng qua 2 bên. Thầy Duy Na xướng tụng hồi hướngđại chúng đồng tụng:

Thọ giới công đức hạnh khó lường

Bao nhiêu phước báu đều hồi hướng

Nguyện khắp chúng sanh bị thác oan

Sớm sanh cõi Phật vô lượng quang

Mười phương ba đời các đức Phật

Các đức Bồ Tát Ma Ha Tát

Từ Bi dũ lòng đoái thương xót

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

Hòa Thượng bước xuống lễ Phật xong, kệ hồi hướng dứt, 2 người dẫn lễ đi trước, giới tử tiếp theo, thỉnh Hòa Thượng hồi quy phương trượng (trở về phòng nghỉ). Thầy Tri Khách hướng dẫn tân giới tử đến trước Tổ đường lễ Tổ và lễ tạ các bậc trưởng thượng cho đúng lễ nghi phép tắc.

Lại nữa, theo trong luật người nữ xuất gia, nên mời bên ni thuyết 5 giới, 10 giới; Duy Na dẫn lễ cũng đều là ni. Phần tác lễ, thay vì thiện nam tử, đổi lại là thiện nữ nhơn, dưới chữ Sa Di thêm chữ Ni cho đúng.

1.1.4 10 chi giới pháp
Mười chi giới pháp phân thành 10 như sau:

1.1.4.1 Thông bạch trải tòa:
Trở lên về việc thọ 5 giới Ưu Bà Tắc, từ đây trở xuống nói về xuống tóc. Truyền 10 giới Sa Di có trước sau, pháp có 2 thời và các mục riêng cho việc thiết trí và nhóm họp chúng. Nếu gặp các duyên khác như thì giờ gấp rút chỉ diễn ra trong một ngày cũng nên phân riêng giờ dần, giờ ngọ 2 thời. Người xin xuống tóc sáng sớm hôm sau, trước hết tới gặp Thầy Duy Na và Thầy Dẫn Lễ lễ 3 lạy, đứng chấp tay bạch:

- Con pháp danh là… hôm qua được chư tôn đức chỉ dẫn được ở trong danh vị cận sự, đã thọ 5 giới và muốn ra khỏi nhà thế tục, song 10 giới chưa tấn đàn, nay con lại kiền thỉnh chư Đại Đức một lần nữa ban cho phương tiện, để con là… cạo tóc xuất gia làm tăng, sớm trở thành nhuần đức không ngằn mé trọn đời con luôn cảm niệm tạc dạ ghi ân.

Thầy Duy Na nói:

- Này thiện nam tử, luật quy định có thềm bậc, pháp đương nhiên có thứ tự, nay tôi vì ông mà chọn nơi trải tòa, thúc hiệu kẻng nhóm chúng, cung thỉnh Hòa Thượng đăng tòa chứng minh, vì ngươi mà xuống tóc, truyền giới. Khi nghe tiếng kẻng, ông nên chờ tác bạch

Giới tử xá 1 xá rồi lui ra. Thầy Duy Na cùng với Dẫn Lễ chọn nơi trải tòa, hoặc chỗ đất trống hay nơi giảng đường hoặc ở phòng Phương Trượng. Cho người quét dọn sạch sẽ rồi mới trải tòa, như nghi trần thiết trước có nói rõ. 

1.1.4.2 Nhóm chúng thỉnh sư: 
Người cầu xuất gia nghe tiếng kẻng báo hiệu, cầm 2 y 5 điều, 7 điều và bình bát theo sau vị Thầy cạo tócđại chúng nhóm đông đủ. Duy Na sắp cho giới tử để y bát bên phải chỗ tòa vị cao tăng, con dao cạo, chén nước tịnh (có cành bông) đặt chỗ ngồi của Hòa Thượng. Đồ gội tóc v.v… nhất nhất đều chuẩn bị sẵn sàng. (Nay có thể không cạo tóc bằng dao mà cạo bằng tondeur, cũng nên để sẵn vật đó trên bàn). Thầy Duy Na bảo:

- Này thiện nam tử, pháp tọa đã bày, đại chúng vân tập, ngươi nên chí tâm hướng thượng, cung cẩn quán tưởng, nhất tâm đảnh lễ: Mười phương Tam Bảo 3 lạy cần cầu đức từ bi gia hộ

- Lạy xong lại nói: xoay sang 2 bên tả hữu lạy hiện tiền đại tăng vân tập mỗi bên 3 lạy.

- Lạy xong lại bảo: ngươi đứng một bên nhờ Thầy Thế Độ (cạo tóc xuất gia) ra khỏi chúng bưng hương đến cung thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng.

Hai người dẫn lễ nhịp khánh đi trước, người bưng khay lễ theo sau vào phòng, đúng như lễ nghi thỉnh Hòa Thượng. Mời Ngài ra đến trước tòa ngồi, 2 người dẫn lễ tới gần trước Phật đứng đối diện tả hữu, cầm hương đứng một bên. Hòa Thượng lạy Phật 3 lạy xong, đứng dậy đến trước tòa Thánh tăng trải tọa cụ lạy 3 lạy rồi Thị Giả xếp tọa cụ. Hòa Thượng niệm hương. Duy Na xướng, đại chúng cùng hòa theo:

Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Dẫn Lễ bảo:

- Ngươi cầm nhang đến trước Phật, tới nơi quỳ xuống dâng hương lên lư, cắm hương xong lui về vị trí

Đại chúng nghe khánh nhịp chí thành đảnh lễ 3 lạy. Xếp tọa cụ, xoay sang hướng đông trước tòa thánh tăng, đến chỗ trải tọa cụ, nghe nhịp khánh đảnh lễ 3 lạy. Lạy xong, xếp tọa cụ lui về chỗ, bước lui đứng sang bên trái.

Người cầu xuất gia bước ra ngoài: Thầy Duy Na nói:

Thiện nam tử, bây giờ Hòa Thượng đã thăng tòa, đại chúng vân tập sẵn sàng, chuẩn bị tác pháp yết ma (vấn hòa) là cách hỏi để tăng hòa, ngươi phải đi ra khỏi chỗ đây, đứng chỗ thấy nhưng không nghe, đợi lúc gọi mới được phép vào. 

1.1.4.3 Người cầu giới ra phía trước xá 1 xá rồi lui ra.
Một người dẫn lễ hướng dẫn ra chỗ có thể thấy bên trong mà không nghe, đứng đó chờ. Dẫn Lễ trở vào trong chúng nghe pháp yết ma. Pháp này tuân theo luật dạy gọi là pháp yết ma không có đương sự hiện diện.

1.1.4.4 Pháp yết ma hòa tăng: 
Hòa Thượng vỗ thủ xích hỏi:

- Tăng nhóm chưa?

Duy Na đáp: Tăng đã nhóm

Hòa hợp không?

Hòa hợp

- Người chưa thọ đại giới ra chưa?

- Đã ra

- Có các vị tỳ kheo thuyết dụcthanh tịnh không?

Nếu không ai thuyết dụcthanh tịnh, trả lời không. Trường hợp có, tỳ kheo thọ dục liền - đáp: Có – và ra giữa chúng xá một xá quỳ chấp tay bạch:

- Bạch Đại Đức Tăng nghe: có tỳ kheo A, B,… mà con thọ dục, tỳ kheo A như pháp tăng sự gởi dục yết ma; trên Hòa Thượng đáp: được. Vị tỳ kheo thọ dục đáp: vâng, xá 1 xá rồi lui về chỗ. Sở dĩ gọi dục tức là bận vì việc cần cấp không thể có mặt với chúng nên nhờ người khác nói thay cho người bận công việc.

- Tăng nay hòa hợp để làm gì?

- Đáp: làm lễ yết ma thế phát (xuống tóc)

- Nay trong chúng đây ai có thể bằng lòng pháp yết ma?

- Vị Thầy làm pháp yết ma trong chúng chấp tay đáp: con, tỳ kheo A, B bằng lòng. Vị Thầy (trưởng lão) đã chấp nhận tiến ra giữa chúng bạch rằng: Pháp yết ma đã thành, chỗ ngồi đã được đầy đủ, chỗ đứng cũng đã đủ xong. Nếu người bạch yết ma đứng, người nghe ngồi, hay người nghe đứng, người bạch yết ma ngồi, đều phạm việc làm phi pháp. Phép yết ma bất thành với việc đi, nằm cũng như vậy. Do vậy, Hòa Thượng hỏi người biết pháp yết ma nên phải đứng nghe; người làm yết ma phải ra giữa chúng lạy 3 lạy rồi đứng chấp tay bạch rằng:

Đaị Đức tăng nghe, có giới tử A muốn cầu Tỳ Kheo B xuống tóc, nếu tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe cho A xuống tóc; bạch như thế, tác bạch có thành không? (bạch 3 lần).

Hiện diện đại tăng đều chấp tay đồng đáp: thành.

Thầy tác pháp yết ma bạch xong ra giữa chúng xá 1 xá, rồi lui về vị trí. Vị Thầy cạo tóc nghe tăng hứa khả vâng cho thế độ, liền đứng lên theo sự hướng dẫn trước chúng hướng về 2 Hòa Thượng lễ mỗi vị 3 lạy. 

1.1.4.5 Gọi cho người xuất gia vào
Tăng đã làm phép vấn hòa xong, Duy Na bước ra bên ngoài nơi giới tử đứng ngoắc tay gọi:

- Này thiện nam tử, ngươi hãy bước vào.

Người kia theo lời gọi mà vào, vào rồi đứng một bên nghe: trong đây tăng làm phép yết ma xong, đã hứa khả thuận cho ngươi trong tăng già lam xuất gia, ngươi nên ra chính giữa (người ấy bước ra giữa tăng) tới trước Phật, chí tâm quỳ gối chấp tay dâng 3 nén hương cần cầu thập phương Tam Bảo từ bi gia hộ. Đương sự ra trước Phật quỳ dâng hương xong, Duy Na cử bài Tán hương, đại chúng chấp tay đồng tán. Dẫn Lễ bảo giới tử đứng lên rồi nghe tiếng khánh chí thành đảnh lễ 3 lạy. 

Phật sanh Tây Trúc

Giáo pháp sang Đông

Nghĩa lý uyên thâm

Nhơn ngã đều không

Nhân tin thoát lao lung

Quân, thân lợi ích đồng

Khoảng cách thật khó gần (khó gặp).

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Giới tử quỳ gối chấp tay, kế đến phần thỉnh sư. Thầy Duy Na nói:

Luận tâm phàm là cái thể của việc chứng Thánh, chỉ giáo mới biết được thân giả huyễn là vật chuyển tải đạo. Nếu chẳng tu không làm sao lo liệu được, ngươi nay đã đủ tín tâm xuất gia thích tu phạm hạnh, lẽ ra phải tự cầu minh sư, nương lòng từ làm mẫu mực, nay tôi vì ngươi mà cung thỉnh thượng A hạ B (tên pháp danh) đường thượng Hòa Thượng chứng minh, thế phát làm Thầy truyền giới cho ngươi, huống nữa vị thầy này tinh nghiêm giới luật, khéo dạy kẻ hậu học. Ngươi phải nghiêm chỉnh nhất tâm theo lời tôi để đích thân thỉnh sư. Ngươi tự trình bày sợ e chưa quen, nay tôi bảo ngươi tự xưng tên họ, pháp danh… ngoài ra những lời gì đều theo tôi chỉ dẫn như sau:

Bạch Đại Đức một lòng thương xót, con pháp danh là… nay thỉnh Đại Đức làm thầy chứng minh, là bổn sư thế độ, truyền giới cho con; mong Đại Đức vì con mà chứng minh và làm thầy thế độ truyền giới. Con nương nơi Đại Đức được thế phát, thọ giới, xin thương xót cho con. (Thỉnh 3 lần, lần sau cùng thêm xin đại thương xót cho con).

1.1.4.6 Khai đạo (văn trích nghi thức cổ)
Hòa thượng vỗ thủ xích bảo:

Này thiện nam tử, nay ngươi ân cần 3 lần cầu thỉnh, nên tôi mới vì ngươi làm chứng minh và thầy truyền giới, thế độ. Tôi nói lời nào ngươi nên chú ý lắng nghe cho kỹ. Nguyên luận về gốc tâm vắng lặng, biển pháp khôn dò, người mê muôn kiếp chìm đắm, kẻ ngộ hiện đời giải thoát. Muốn truyền diệu đạo không vượt ngoài xuất gia, khoáng đãng như hư không, trong sáng lồng lộng như trăng tròn; tu hành đầy đủ các duyên, đạo quả không xa. Mới đầu gia công khắc niệm, tất chứng được vị vô vi, sở dĩ bậc đại giác Thế Tôn bỏ ngôi vị đế vương nửa đêm vượt thành cởi áo bào trân quí, khoát áo vải thô. Vào tận nơi thâm sơn cắt tóc tu hành, để mặc cho chim làm tổ trên đầu, nhện giăng nơi mí mắt. Chí tâm tu tịch diệt mà chứng chân thường, dứt trần lao mà đạt thành chánh giác. Ba đời chư Phật không nói tại gia thành đạo, trải qua các bậc Tổ sư, chưa ai từng ô nhiễm mà độ được người bao giờ. Sở dĩ giữa Phật với Phật thông nhau trao tay, giữa Tổ với Tổ truyền tâm không nhiễm duyên trần mới thành pháp khí (tinh anh) nên được thiên ma nể phục, ngoại đạo qui hàng. Trên đền đáp 4 ân sâu, dưới cứu khổ quần sanh. Bị trôi lăn trong 3 cõi, vì không thể xả bỏ ái ân; sâu vào pháp vô vi mới thật là báo ân. Sau khi xuất gia, lễ vượt thường tình không lạy quân vương, không lạy cha mẹ. Ngươi nay có thể bỏ chỗ ngồi của tôi mà tưởng nghĩ đến ân đức cha mẹ, quốc vương lạy đáp tạ từ. Song 1 lạy đây gọi là sau cùng vậy.

1.1.4.7 Lời tạ từ đấng quân vương và song thân
Thầy Dẫn Lễ nói:

- Này thiện nam tử, hãy đứng lên hướng về hướng Nam. Lễ lạy tạ từ cha mẹ, và hướng Bắc lạy tạ từ quốc vương. Trước hết lấy cái lễ của thế gian từ giả quân thân, sau lấy cái nghi của xuất thế quay đầu về Phật pháp.

Thầy Dẫn Lễ hướng dẫn người cầu thế độ đứng xoay mặt về hướng Bắc, rồi bảo rằng:

Này thiện nam tử, ngươi đứng nghiêm chỉnh hướng về hướng Bắc tưởng nghĩ đến ân quốc vương, đất nước chí thành đảnh lễ 4 lạy. 

Giới tử lạy xong, lại hướng dẫn xoay sang hướng Nam rồi bảo rằng:

Này thiện nam tử, ngươi đứng nghiêm chỉnh hướng về hướng Nam niệm tưởng công ơn sanh thành dưỡng dục sâu dày của cha mẹ chí thành đảnh lễ 4 lạy.

Chờ cho đương sự lễ xong, lại hướng dẫn đứng xoay về hướng trung ương rồi bảo rằng:

Này thiện nam tử, ngươi đã từ tạ quân vương, bái biệt cha mẹ, quay về với Tam Bảo làm đệ tử Phật, phải đứng chấp tay ngay thẳng chí thành quán niệm, nghe khánh nhịp đảnh lễ thập phương thường trụ Tam Bảo 9 lạy. 

Lạy xong, hướng dẫn đến trước tòa ngồi Hòa Thượng, Dẫn Lễ bảo rằng:

Này thiện nam tử, hãy hướng về Hòa Thượng chí thành đảnh lễ 3 lạy, rồi quỳ gối chấp tay.

1.1.4.8 Xuống tóc: 
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo:

Này thiện nam tử, giờ đây các duyên đầy đủ, tăng chúng đồng chúc mừng, nay tôi rời chỗ ngồi, trước dùng nước cam lồ rưới lên đảnh đầu của ông, làm cho tâm địa ông mát thanh lương, phiền não không xâm lấn, kế dùng giới đao cắt đoạn tóc ngươi khiến cho tình trần của ngươi dứt đoạn vĩnh viễn; phạm hạnh tăng trưởng. Đây là cái nhân lành của nhiều đời nhiều kiếp; không phải mới sáng nay ngẫu nhiên mà gặp được. Ngươi càng gia tâm tin sâu càng sanh lòng đại hoan hỷ.

Hòa Thượng một tay cầm tịnh bình rời chỗ đến trước người xuất gia dùng chén nước trong lấy ngón tay nhúng cành dương (hoa) rảy lên đảnh đầu đương sự. Một thị giả phụ với Hòa Thượng cầm chén nước, một thị giả khác lấy dao nơi tòa dâng lên Hòa Thượng. Hòa Thượng cầm dao, đọc bài kệ chú, đại chúng cùng hòa theo như sau:

Lành thay đại trượng phu

Hiểu rõ đời vô thường

Bỏ tục hướng Niết Bàn

Ít có khó nghĩ lường.

(Bài kệ trích từ nghi thức cổ, nay có thay đổi).

Hòa Thượng đọc kệ chú xong, lấy dao cạo trên đầu người cầu pháp 3 nhát, rồi lui về chỗ ngồi. Thầy Duy Na bảo:

- Này thiện nam tử, nay Hòa Thượng đã lấy dao cạo cho ngươi, ngươi nên đứng dậy xá một xá, rồi đến trước thầy thế độ của ngươi quỳ gối sát đất 2 tay nâng dao xin thầy cạo nốt tóc cho. 

- Đương sự tới trước thầy thế độ, thầy Dẫn Lễ xướng:

- Lễ 1 lạy, quỳ xuống nâng dao dâng lên Thầy ngươi. Lẽ ra ngươi tự nói lời cầu xin, sợ ngươi chưa quen, nay tôi chỉ ngươi nói theo như sau:

Đại Đức một lòng nghĩ, con pháp danh là…. Nay cầu xin Đại Đức làm thầy A Xà Lê xuống tóc cho con, mong Đại Đức vì con làm A Xà Lê thế phát, con xin nương theo Đại Đức được xuất gia, xin thương xót cho con. Nói 3 lần và cúi đầu xá 3 xá.

- Thầy thế phát bảo rằng:

- Này thiện nam tử, đợi tôi trước lễ đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn và các tôn tượng Đông Tây xong hẳn cạo tóc cho ngươi. Ngươi hẳn đứng sang một bên lấy nước gội tóc. 

- Đương sự đứng lên gội tóc; thầy lễ Phật và các bàn Đông Tây mỗi nơi 3 lạy xong, thầy quỳ trước Hòa Thượng chấp tay bạch rằng:

- Nay được Hòa Thượng chủ tọa khai đạo, quán đảnh chứng minh, con tỳ kheo… đúng vì… mà cạo tóc cho. 

Hòa Thượng đáp:

Lành thay y đúng như pháp

- Thầy thế độ đáp:

- Vâng, 

- Xá một xá đứng lên, xoay vô giữa rồi đứng sang bên tả. Vị xuất gia gội tóc xong, tay bưng đồ đựng tóc, quỳ gối trước Thầy, Thầy nên chừa lại một ít tóc trên đảnh y, rồi đưa con dao cạo xuống khắp quanh mái tóc. Duy Na bắt tụng kệ chú cạo tóc, đại chúng đồng hòa âm theo như:

Cạo bỏ râu tóc

Nguyện cho chúng sanh

Xa hẳn phiền não

Rốt ráo thanh tịnh.

Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta bà ha.

- Đọc đi đọc lại 3 lần, tới lúc cạo tới đỉnh xong, bài kệ chấm dứt. Dừng dao lại, thầy hỏi đương sự rằng:

- Tôi đã vì ngươi mà dẫy trừ tóc trên đầu, chỉ còn chừa một chùm trên chỏm, ngươi nên suy xét kỹ để quyết định. Nếu như không thể quên mình tấn đạo, nhẫn khổ tu tập như chỏm tóc vẫn còn. Cũng có nghĩa là người thế tục cho ngươi trở lại nhà cũng chưa muộn vậy. Cho nên nay tôi đứng trước đại chúng đây hỏi ngươi, ngươi có quả thật quyết chí xuất gia để về sau khỏi có hối hận không?

- Đương sự đáp:

- Con quyết chí xuất gia, sau này không có hối hận.

- Ngươi hứa quyết chí xuất gia, về sau không hối hận, phải không?

- Hỏi 3 lần như thế, đương sự đều 3 lần đáp giống nhau. Ngươi đã quyết chí xuất gia mà không có hối hận, mới cạo dứt chỏm tóc còn lại trên đảnh dưới lưỡi dao như vầy:

Ái buộc dứt sạch

Cần tu phạm hạnh

Tăng đoàn thanh tịnh

Phước huệ toàn thành.

- Vị thầy cạo tóc xong, đến trước Hòa Thượng, tay cầm dao bạch rằng:

- Con tỳ kheo…….. nay được Hòa Thượng từ bi chứng minh, vì … con đã xuống tóc xong. 

Hòa Thượng bảo:

- Được, tốt lắm.

- Bạch xong, để dao lại chỗ cũ rồi lui về vị trí của mình. Đương sự đắc độ lạy một lạy rồi đứng lên lui ra một bên phủi tóc, sửa lại y phục xong trở lại chỗ cũ, quỳ gối chấp tay, một vị dẫn lễ tới trước tòa thánh tăng phía Đông trước hết cầm 2 vật mạn y và một bình bát đặt trước mặt Hòa Thượng.

1.1.4.9 Truyền thọ giới Sa Di
Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo:

- Này gã thiện nam, đầu của ngươi tóc đã cạo bỏ, hình nghi khác tục, chỉ tên gọi là hình đồng Sa Di, nếu thọ 10 chi thập thiện, thân ở già lam nương theo thầy mà học; ăn uống cùng với đại tăng, mặc y mà ăn uống mới gọi là đồng Sa Di.

Vì thế nay trước hết tôi chỉ cho ngươi, y – bát của Sa Di, kế truyền 10 giới để tiện việc hành trì không trái luật nghi. 

Hòa Thượng tay cầm mạn y, nói:

- Đây là cái mạn y của Sa Di cần mặc đắp, mạn có nghĩa là không cắt mãnh khâu lại thành. Không có điều dài ngắn. Y này mặc thường khi ra vào, tới lui trong chùa, làm việc chúng, trong mọi lúc luôn mang theo không được lìa y khỏi thân. Do vậy còn gọi là y tác vụ (làm việc). 

- Để y mạn xuống nâng bình bát lên nói rằng:

- Đây là chiếc bình bát thọ dùng của Sa Di; tiếng Phạn là Bát Đa La, dịch nghĩa là ứng lượng khí. Phàm lúc thọ trai (ngọ trai) nên dùng. Mỗi khi ra vào phải mang theo bên vai hữu có dây đeo bên nách trái. 

- Để bát xuống bảo rằng:

- Này thiện nam tử, y bát ngươi như pháp, giới cũng đã thọ, ngươi từ vô thỉ cho đến ngày nay do vọng tưởng che mờ bản tâm, tình thức tham ái cảnh trần mà không biết gốc mọi pháp khôngtự tánh; trong đó mỗi mỗi sự thủ xả (lấy bỏ) tạo vô số ác nghiệp đã làm cho thân tâm nhơ bẩn. Tịnh giới đã thọ nay ngươi lấy đó an tâm tu tập. Hãy đến trước thập phương Tam Bảo cầu mong cứu giúp, mong từ vô thỉ chưa làm thiện, từ nay tinh tấn, một khắc lỡ tạo việc ác, hứa không tạo lại nữa. Ngưỡng mong Tam Bảo dũ lòng thương hầu cho ngươi thọ giới, ngươi theo lời tôi sanh đại hổ thẹn tịnh tâm sám hối. Tự nói pháp danh… Xong, đọc kệ sau để sám hối:

Xưa con vốn tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Tội chướng đây đều xin sám hối.

Xưa con vốn tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Nay đối trước Phật cầu sám hối.

Xưa con vốn tạo các ác nghiệp

Đều do vô thỉ tham sân si

Từ thân miệng ý phát sanh ra

Hết thảy tội căn đều sám hối.

Sám hối xong, nay tôi trước vì ngươi tuyên đọc 3 quy y, chính là lúc nạp nhận ngươi, ngươi nên phát tâm phẩm thượng nhận thượng phẩm giới. Nói tâm phẩm thượng đối với Tam Bảo phát tâm đoạn ác tu thiện, tâm lợi tha khắp cùng pháp giới. Hết thảy hữu tình, cùng cảnh vô tình nhưng cùng nơi cảnh sở duyên, nguyện đoạn hết thảy ác. Không có ác nào chẳng dứt, tịnh tu hết điều thiện; không việc thiện nào chẳng tu, nguyện độ hết thảy chúng sanh. Không có chúng sanh nào chẳng độ, có thể phát tâm như thế, là thượng phẩm tâm. Đã được giới Sa Dithượng phẩm giới. Ngươi nên trong phát tâm như thế, duyên cảnh như thế, ngoài theo tôi lắng nghe suy nghĩ kỹ lãnh thọ, không được biết khác, nghĩ khác, tự xưng đọc pháp danh…Đợi Hòa Thượng đọc một câu xong, liền đọc theo câu đó, chớ có lẫn lộn như:

Con…suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, con nay theo Phật xuất gia, nương theo Ngài A làm bổn sư, Như Lai chí chân đẳng chánh giácThế Tôn của con, xin thương xót cho con. (Lần thứ ba thêm: xin đại thương xót cho con).

Trở lên 3 quy y, chính là nạp thể nơi tâm, lại thêm 3 kết đạt được pháp viên mãn, có nghĩa là 3 lần yết ma. Tự xưng pháp danh…nói theo tôi như sau:

Con… quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, nay con đã theo Phật xuất gia, Ngài thượng A hạ B là bổn sư, Như Lai chí chân đẳng chánh giácThế Tôn của con, xin thương xót cho con, cúi xin đại thương xót con.

(Đó là 3 kết đã đọc xong).

- Này thiện nam tử, tam quy y, 3 kết đã xong. Nguơi đã được giới thể thanh tịnh, nay đây tôi vì ngươi đọc 10 giới tướng, khiến ngươi hiểu qua thực hành để hộ niệm giới thể, hãy tự xưng pháp danh, con pháp danh…

- Giới thứ nhất từ đây cho đến suốt đời không giết hại chúng sanh là gìới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ hai từ đây cho đến suốt đòi không trộm cắp là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ ba từ đây cho đến suốt đời không dâm dục là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ tư từ đây cho đến suốt đời không nói dối là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ năm từ đây cho đến suốt đời không uống rượu là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giói thứ sáu từ đây cho đến suốt đời không xức ướp nước hoa hương thơm là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ bảy từ đây cho đến suốt đời không ca múa hát xướng và cố đi xem nghe là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không? 

- Giới thứ tám từ đây cho đến suốt đời không ngồi giường cao tốt rộng lớn là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ chin từ đây cho đến suốt đời không ăn phi thời là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

- Giới thứ mười từ đây cho đến suốt đời không đeo giữ vàng bạc, đồ trang sức châu báu là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?

(Mỗi lần hỏi, giới tử đáp: con giữ được).

Đọc 10 giới xong, Dẫn Lễ bảo giới tử cúi đầu, đọc 3 lần xá 3 xá. Xong quỳ xuống chấp tay, đợi Hòa Thượng khai thị cho đắp y thực hành. Dẫn Lễ bảo Sa Di, lễ 1 lạy xong đứng lên.

Hòa Thượng dạy rằng:

Việc thọ giới đã xong, nay ngươi đủ thể tánh Sa Di, phải mặc y mạn (trong sách gọi y 5 điều và 7 điều là y mạn), mang bình bát để tượng trưng tướng bề ngoài của Sa Di. Đại Đức Dẫn lễ có thể đắp y cho giới tử (người thọ giới), dạy đọc bài kệ cho biết để hành trì

(Phụ: Thanh Qui có phần truyền 2 y 5 điều và 7 điều cho Sa Di, cũng như 2 bài kệ chú truyền 2 pháp y đó. Nhưng theo truyền thống Đại Thừa Phật giáo Việt Nam, Sa Di chỉ thọ một mạn y; còn y 5 điều và y 7 điều là của Tỳ kheo. Thầy Tỳ Kheo thọ 3 y cùng một lúc. Tại sao có sự khác biệt này? Và khởi đầu từ đâu? Do đó người dịch bỏ hẳn đoạn văn hai bài kệ đắp y 5 điều và 7 điều. Mong chư vị cao minh cho biết tôn ý trong vấn đề nầy). 

Thầy Dẫn lễ đến bàn lấy y, bát, tọa cụ đưa qua, đương sự trước hết tự mang bình bát lên vai, hướng tới trước tòa trải tấm tọa cụ. Và đại chúng cùng đọc kệ chú: 

Ngọa cụ ni sư đàn,

Nuôi dưỡng tâm tánh thiện,

Trải bày nơi Thánh địa,

Gìn mạng mạch Như Lai.

Án đàn ba đàn ba, sa ha (3 lần). 

Xong lạy 3 lạy. Thầy Duy Na xướng, đại chúng tiếp:

Nam mô bảo đàm hoa Bồ Tát Ma Ha Tát

1.1.4.10 Khuyến tấn và hồi hướng:
Hòa Thượng vỗ thủ xích dặn bảo:

- Này Sa Di, tóc ông nay đã rơi xuống, Ca Sa mặc noi thân, được vào tụ thiện pháp, ra khỏi cảnh trần lao. Mỗi ngày làm cho đạo nghiệp thêm mới, lìa dứt mọi phan duyên (vướng bận), nay tôi chỉ cho ông 5 đức, 10 số làm phấn chấn đạo tâm nương đó mà hành trì

Nói 5 đức theo kinh Phước Điền có ghi rõ như sau: 

1- Phát tâm xuất gia luôn giữ mối đạo,

2- Phá bỏ hình tướng đẹp thích mặc pháp phục,

3- Cắt ân ái, dứt mọi gần gũi qua lại,

4- Thà bỏ thân mạng để duy trì đạo,

5- Chí cầu Đại Thừa vì muốn độ người.

Nói thập số theo như luật Tăng Kỳ ghi rằng: 

1- Tất cả chúng sanh đều nhờ ẩm thực (tới bửa ăn niệm 5 phép quán để ngăn tâm tham - sân - si ).

2- Biết danh - sắc là giả mới ngộ pháp nhị không.

3- Biết bịnh tưởng khổ đau là vọng phân biệt, trừ dứt phiền nãosở tri chướng

4- Hiểu rõ bốn chân lý biết khổ, tập, diệt phải cần tu đạo.

5- Soi tỏ năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều không.

6- Biết thân hư dối như mây tụ hư không. Sáu cảnh trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, như chung với giặc.

7- Khéo dùng 7 giác chi tức là khéo chọn lựa pháp tu.

8- Thường thực hành 8 chánh đạo.

9- Biết rõ chúng sanh nơi 9 cõi đều không… khổ, không, vô thường, vô ngã.

10- Quán cả 10 người tự bản tánh mỗi người không sanh, chẳng hòa hợp.

Đây là pháp Sa di phải ứng hợp như vậy, đã nghe biết rồi luôn luôn ghi nhớ đừng quên. Nếu hay chuyên học quyết hành thì 10 chi giới Sa Di thanh tịnh, 24 cửa oai nghi, 5 đức sẵn sàng, 10 số tu tiến trong tương lai đăng đàn vào hàng thập sư[9], bạch 4 yết ma thọ cụ túc thành giới Tỳ Kheo Tăng, vào nhà Tam Bảo, nối dõi giòng Thánh, công đức khó lường. Từ đây trở đi bồi đắp thêm lòng tin thanh tịnh chớ nên biếng nhác buông lung thân tâm, ngươi có thể nương theo đó phụng hành được không?

- Đáp: Con xin y giáo vâng làm.

Hòa Thượng dạy: Đã y lời dạy vâng làm, đem công đức cạo tóc thọ giới này trên đền đáp bốn ân, dưới cứu ba đường khổ. Đại chúng đồng niệm hồi hướng.

Hòa Thượng vỗ thủ xích một tiếng rồi đứng lên chấp tay niệm Phật. Dẫn lễ bảo tân Sa Di lễ tạ Hòa Thượng 3 lạy, rồi đứng sang một bên. Thầy Duy Na xướng hồi hướng, đại chúng hòa theo:

Thọ giới công đức hạnh nhiệm mầu,

Phước báu bao nhiêu con nguyện cầu,

Nguyện các chúng sanh đang trầm nịch (lặn hụp),

Sớm về cõi Phật vô lượng quang,

Mười phương ba đời các đức Phật,

Các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát,

Ma Ha bát nhã ba la mật,

Ma Ha bát nhã ba la mật.

Hòa Thượng xuống tòa lạy Phật xong, theo nghi thường lệ tiễn Hòa Thượng về liêu phương trượng. Đại chúng cùng vui vẽ lạy Phật 3 lạy. Sa Di thọ giới ra trước chúng lễ tạ đại chúng và Thầy Duy Na, thầy Dẫn lễ xong; chờ đại chúng đi hết. Thầy thế độ đưa Sa Di đến Tổ đường lạy Tỗ; lễ xong trở lên Phật điện thu dọn đàn tràng.

Chứng nghĩa ghi rằng, đức Phật lúc sắp nhập Niết Bàn luôn nhắc đến giữ giới luật khuyên chư Tỳ kheo lấy giới làm thầy. Nhờ đó duy trì được mạng mạch tăng già, chánh pháp tồn tại được lâu dài đều do việc giữ giới vậy. Song ban sơ chế luật, trước hết chế 5 giới khởi đầu của người xuất gia. Trước tiên nói 10 chi giới mà tổ Bách Trượng sao lục lại trong Thanh Quy làm mô phạm cho người xuất gia thật là cần yếu vậy. Từ đó trở đi tạng bản phần nhiều ngụy tạo để lại nơi lầu kinh các. Lưu hành sách hay đời cũng hiếm thấy,việc cạo tóc, thuyết giới nghe chừng không nghe, lạ gì Phật pháp không suy tàn chứ ? 

Ở đây tôi được duyên may thật là hy hữu, gặp thấy sách mô phạm nầy do luật sư Kiến Nguyệt hiệu chính tại Bảo Hoa sơn ở Kim Lăng nên truyền lưu rộng hầu vản hồi lại buổi suy đồi. Cho Sa Di cạo tóc theo đúng mô phạm tức là Tỳ kheo am tường giới luật; cũng phải suy nghĩ hàm ý nói tuân lời Phật dạy không để thiếu sót. Muốn nghe thấy, thọ trì cũng vì bể khổ, bờ giác truyền đúng hạnh Phật, đứng làm trụ cột vững chắc lâu dài. Trong sùng kính Pháp làm cho Phật pháp hưng thịnh; ngoài giúp vua trị vì giữ vững đất nước bền lâu. May nhờ không nhẹ nghi tắc cũng giống như diễn lại tích xưa. Sách này để tiện việc tác pháp truyền giới nên không ghi phần trích dẫn như chứng nghĩa ghi. Quí hồ ở cái thể đạt Phật ý mới thật xứng danh, để không phụ ân sâu giúp (tế độ) bậc quân thân.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32572)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12154)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12570)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34441)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12518)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16403)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11401)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14381)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13099)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13850)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant