Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Bố Tát tóm tắt có 10 điều giới

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11864)
4. Bố Tát tóm tắt có 10 điều giới

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.4 Bố Tát tóm tắt có 10 điều giới:

Mỗi nửa tháng có trăng hay không trăng các vị Tỳ kheo đều phải Bố Tát. Bảo Hoa Sơn ở Giang Nam có ngài Độc Thể hiệu đính Luật Tỳ Kheo; nguyên bổn gồm hai quyển: Quyển thượng bao gồm 27 mục, quyển hạ phần chánh có 44 mục. Nay ở phần cương mục đó lại rút ra đại cương, ghi gọn chỉ còn 10 điều như: 

1.4.1 Luận chung nhị thừa: Đại ThừaTiểu Thừa
1.4.1.1 Tiểu Thừa
Tiểu thừa gồm 7 chúng:

1- Tỳ Kheo

2- Tỳ Kheo Ni

3- Thức Xoa Ma Na

4- Sa Di

5- Sa Di Ni (5 chúng trước thuộc chân đế); 

6- Ưu bà tắc

7- Ưu bà di (2 chúng sau thuộc tục đế). 

1.4.1.2 Đại Thừa
Bảy chúng Đại Thừa là người phát Bồ Đề tâm thọ đại giới Bồ Tát

1.4.2 Tôn trọng đúng luận sự lầm lỗi: 
Phật dạy mỗi tháng lấy ngày Rằm là ngày có trăng giữa tháng Bố Tát; lấy ngày 30 là ngày không trăng (hắc) giữa tháng Bố Tát. Nếu tháng thiếu lấy ngày 29 làm ngày không trăng trong tháng Bố Tát. Ngày nay theo lệ đó mỗi tháng 2 ngày Rằm, Mồng Một là ngày có trăng và tối trời Bố Tát nửa tháng có trăng thay phiên tụng giới; đối với nửa tháng không trăng thời không có Bố Tát. Tham cứu sâu theo quy tắc này chưa xác định sai lầm có từ lúc nào, cứ hễ thấy trước làm khiến sau làm theo do quen đã thành nếp sẵn. Căn cứ theo luật thuyết giới Kiền Độ ghi rằng, người phạm không được tụng giới, cũng không được nghe giới. Không được hướng về người phạm cầu sám hối; kẻ phạm cũng không được nhận người khác sám hối. Phải hướng về người thanh tịnh cầu sám hối, tụng và nghe giới. Phần này nói rõ trước khi Bố Tát phải bày tỏ lỗi lầm qua phần tác pháp Yết Ma. Cho nên tôi dựa theo đúng luật chỉ đúng chỗ sai lầm, luôn lấy ngày có trăng giữa tháng nhằm 14 sám hối trước đến ngày Rằm mới Bố Tát. Nửa tháng không trăng ngày 29 lễ sám hối và ngày 30 Bố Tát. Nếu gặp tháng thiếu lấy ngày 28 sám hối và ngày 29 Bố Tát như qui định sẵn. 

1.4.3 Tuân lời dạy cổ nhân
Như Tỳ Kheo ở trụ xứ phạm luật mà nghỉ Bố Tát, tụng giới. Những người phàm làm một viêc không có công đức, trái lại còn rước lấy tội. Lấy sở y cho là phi, nhưng năng y cũng thành phi nốt. Luật Tứ phần ghi rằng, nếu làm pháp Yết Ma hẳn phải trước khi kiết giớicăn bản là luật Tăng Kỳ, Ngũ Phần, Luật Thập Tụng. Tuy 5 bộ luật mỗi bộ còn có tông chỉ, chí như một pháp Yết Ma mà không y theo tác pháp là việc sai lầm đầu tiên. Song giới có hai: 

a) giới tác pháp: lấy việc nhóm chúng lập tiêu chuẩn như xướng tướng, vấn hòa, trình bạch, nhận cho. Trước hết kết nội giới trường và sau đó kết ngoại (đại) giới trường. Sau hết nêu lên tiêu chuẩn tướng đại giới trường, nhưng kết chẳng mất theo hạn giới 

b) tự nhiên giới có 4 tiết: 

1- thôn trang 

2- am thất 

3- đường đi 

4- Chỗ có nước. 

Bốn phần nầy mỗi phần có giới hạn thiên nhiên, vì thế không phân hạn giới, cũng như không nêu tướng giới chỉ tác bạch chấp nhận mà thành thôi. Riêng Tỳ kheo ni nương tựa hạn giới của Tăng cũng theo tiêu chuẩn nầy. Nếu như Bồ Tát Tỳ kheo kết giới cũng theo y như trên. Y cứ theo kinh Địa Trì ghi rằng Bồ Tát Tỳ Kheo tăng không kết giới là khinh lờn lời Phật; cũng như không giữ gìn luật Tăng. Như thế phàm chỗ ra làm đều không thành vậy. Tại sao thế? Vì không kết giới trường thì không hội đồng giới sư (10 vị) bạch bốn lần yết ma, không truyền giới chỗ công khai. Không kết đại giới tràng là Bồ Tát tụng giới không thể thuyết dục hòa tăng được; không kết y giới thời không thâu nhiếp như chim không có đôi cánh. Nên biết rằng Bồ Tát Tỳ kheo tăng phàm ở chung một trụ xứ nhưng pháp Tỳ Kheo tăng riêng, bạch hai lần yết ma kiết giới. Tiểu chúng 3 người tùy thuộc nội giới của đại tăng

1.4.4 Cử xứng người đức độ:
Định kỳ tác pháp có nêu rõ Bố Tát ngày không trăng hay có trăng, chư Tăng vân tập tụng giới, nên chọn người mô phạm có khả năng tụng. Như người giới đức song toàn, niên lạp hơn 5 hạ, có trình độ hiểu biết giải quyết được mọi nghi vấn. Nghe trong tăng bạch hai lần yết ma có khác, nên hễ mỗi chức danh của Nhị Thừa ắt phải nghiên cứu rành luật Tứ Phần. Kinh Phạm Võng ghi: Nhị Thừa chọn khác đã quen như thế rồi. Lại như trong cái hay thông thường mỗi người có khác, giới hạn thời 7 chúng Tiểu Thừa; tình cờ đủ duyên gặp chúng tụng bổn giới đã thọ. Nếu như trong nội giới Tỳ Kheo tăng nên mời riêng một vị đọc giới Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni cũng vậy, cho chí Ưu Bà Di hẳn không có phần nghe tụng giới, nên nói giới hạn là vậy. Phổ thông là 7 chúng Đại Thừa gặp duyên tình cờ nhóm lại tụng Phạm Võng giới. Bất luận tụng giới gì nên mời một Tỳ kheo Bồ Tát giới đại diện trong chúng tụng giới. Nếu khôngTỳ Kheo mà chỉ có 6 chúng thôi nên mời Tỳ Kheo ni Bồ Tát trong chúng như người thay thế tụng giới. Thậm chí nếu không có 6 chúng trên mà chỉ có Ưu Bà Di Bồ Tát giới liền mời vị ấy đại diện tụng giới thay chúng. Vì 7 chúng Đại Thừa đều cho nghe tụng giới nên gọi là chung hay phổ thông là vậy. 

1.4.5 Hòa chúng thanh tịnh nơi tịnh đường:
Căn cứ theo như trong luật ngày Bố Tát phải quét dọn sạch sẽ, trải tọa cụ, chuẩn bị nhang đèn, hoa quả, đồ đựng nước tại thiền đường… Vị thượng tọa phải dạy Tỳ Kheo nhỏ tuổi và vị nhỏ tuổi y lời dạy như pháp mà làm. Nếu trên không dạy, dưới không biết đâu mà làm đều phạm tội vượt luật tắc. 

Về thiết tòa có hai loại: 

a) Tòa cao dùng để ngồi tụng kinh hay đăng đàn.

b) Loại thấp để cho người ngồi nghe hay tọa thiền. Loại tòa cao nên dùng bông hoa trang trí chỗ ngồi, cần treo đèn đuốc để phòng trời tối. 

Đồ đựng nước có hai thứ: 

a) Nước rửa chân 

b) Nước rửa tay. 

Sa la gọi là nhà che mưa nắng, nhưng nay cũng gọi là thiền đường hay tịnh đường.

1.4.6 Khiêm nhường kính trọng pháp Đại thừa, Tiểu thừa:
Tuy cùng tụng giới Bồ Tát, nhưng dựa theo giới Đại Thừa, nếu khi tụng giới Tỳ kheo nên theo thứ tự tuổi hạ của tăng. Giải thích thêm; Bồ Tát chúng Tiểu Thừa lại nương giới Tiểu Thừa theo thứ tự mà ngồi; nơi chúng Đại Thừa thời nương giới Đại thừa theo thứ tự mà ngồi. 

Lại có người thọ giới Tỳ Kheo trước sau mới thọ giới Bồ Tát thời ngồi theo giới lạp Tỳ Kheo. Như thọ giới Bồ Tát trước, sau thọ giới Tỳ Kheo, theo như Đại Thừa dựa theo thứ tự giới Bồ Tát thọ giới Tỳ Kheo mà theo thứ tự, Tỳ Kheo ni cũng như thế. 

Số tiểu chúng 3 người thời có 2 trường hợp

a- Tiểu thừa tính người lớn tuổi 

b- Đại thừa tính theo giới mà sắp thứ tự, hai chúng tại gia cũng thế

Như 7 chúng Bố Tát tập họp tại một giới trường theo thứ tự: 

1- Tỳ kheo Bồ Tát 

2- Tỳ Kheo ni 

3- Thức Xoa Ma Na 

4- Sa Di 

5- Sa Di Ni 

6- Ưu Bà Tắc 

7- Ưu Bà Di

Giới tuy có thứ tự như thế, nhưng theo thiền môn việc ra vào có qui tắc như nêu rõ ở trước. 

1.4.7 Hợp đồng giản dị, có 5 loại giản dị như: 
1) Phổ thông theo thế tục, người đời lầm lẫn nơi già lam gặp ngày Bố Tát sắp đặt lễ tiết 

2) Người nữ tín tâm trí thức, nếu đăng đàn giảng kinh diễn nghĩa phải thật thấu đáo văn - tư - tu. Còn như trong tăng tụng giới làm pháp Yết Ma, vị ấy tự biết mà tránh xa đi chỗ khác 

3) Người xuất gia nhỏ tuổi, tuy còn thói nhiễm do chưa gần bậc viên giác. Vì thế hễ lúc làm pháp Yết Ma phải nên đứng tránh chỗ thấy nhưng không nghe (tăng yết ma) và không được nghe lắng. 

4) Tỳ Kheo phạm giới không được nghe tụng giới; phải đợi hối lỗi thanh tịnh mới được chấp nhận

5) Ni xưng là á tăng (cải dạng) vào trong tăng Bố Tát thời khác với Tỳ Kheo tăng. Vì thế nửa tháng Ni phải đến thỉnh tăng giáo giới vào đúng lúc Tỳ kheo Bố Tát. Ngõ hầu hỏi đáp có được không mới là ngày của chư Ni tụng giới. 

Luật ghi rằng, Tỳ Kheo Bố Tát ngày Rằm, Tỳ Kheo Ni Bố Tát ngày 16 là vậy.

1.4.8 Vâng pháp thính giáo:
Y cứ theo luật, sau khi đức Phật Thích Ca thành đạo trong vòng 14 năm Di mẫu cùng 500 Thích nữ xin xuất gia. Lúc đầu Ngài không nhận, A Nan thay lời bạch đến lần thứ ba, Phật mới hứa khả. Phật dạy ngài… A Nan trao truyền 8 kỉnh pháp. Cho Ni chúng xuất gia rồi còn có vấn đề khiến Tỳ Kheo Ni nửa tháng vào ngày Bố Tát, phải đến trong Tỳ Kheo tăng cầu thỉnh giáo giới. 

Lại hỏi: có thể thuận cho không? 

Chúng Tỳ Kheo trong khi tụng giới nên hỏi rằng, ai sai Ni đến thỉnh giáo giới? Nếu có tức theo đúng pháp mà sau đây sẽ thấy rõ. Nếu có thể y giáo phụng hành (y lời dạy vâng làm ) thời chánh pháp còn tồn tại ở đời 1000 năm. 

1.4.9 Giới thành tựu hợp pháp:
Lấy giới (đàn tràng, hạn giới) làm sự, là nương nơi pháp; tăng là người thừa hành pháp sự. Theo Tiểu Thừa qui định như luật Đàm Vô Đức có độ 184 pháp yết ma bao hàm tất cả thời và phi thời. Luận về Đại Thừa Tỳ Kheo tăng, nghi thức Bố Tát nửa tháng cũng giống như Tiểu Thừa. Có điểm khác là Đại Thừa trong đó có Ni thuộc 7 chúng đều được nghe Kinh Phạm Võng; tạm chấp chỗ phức tạp đặt pháp Tiểu Thừa mà không học thời trọn không phải Phật tử, thật là người si mê. Kinh Địa Tạng Thập Luân ghi rằng, si mạn cho Đại Thừa là không có lực trí huệ; còn mê mờ pháp Nhị Thừa huống gì hiểu Đại Thừa, thì Bồ Tát tăng ấy rốt cuộc cũng không tôn trọng pháp Tỳ Kheo Tăng. 

Phép tụng giới đúng có 4 loại riêng biệt: 

1) Duy Đại kiêm Tiểu 

2) Duy Tiểu kiêm Đại 

3) Chỉ có Tiểu không Đại 

4) Chỉ có Đại không Tiểu. 

Nay dựa theo đương thời vã để 3 loại trước, loại bốn chỉ có Đại không Tiểu. Nếu trong một đàn tràng bao hàm Tỳ Kheo tăng Bồ Tát, gặp ngày Bố Tát, trước hết phải tập trung tại phòng tụng giới Tỳ kheo, sau đó vào chánh điện tụng giới Bồ Tát. Giá gặp trở ngại như địa điểm tụng giới quá xa, trước tụng lược giới Tỳ Kheo, sau tụng đủ giới Bồ Tát. Nếu nạn xảy ra quá gần Nhị Thừa đều lược giới; như gặp nạn bức bách sát bên có tụng lược cũng không được nữa, bèn phải thưa rằng: chư Đại Đức hôm nay là ngày Rằm Bố Tát mỗi người nhiếp thân, khẩu, ý đừng có buông lung. Nói như thế rồi mỗi vị tự ý giải tán. Đây là nạn duyên gấp phải như vậy. Song tuyệt đối người chưa nghe thọ giới mà không tụng giới không được gọi là Tỳ Kheo Bồ Tát. Kinh Phạm Võng ghi rằng, nếu thọ Bồ Tát giới mà không tụng giới thời chẳng phải là Bồ Tát, không phải là chủng tử Phật. Hơn nữa trụ trì tăng bảo mà không đúng giới luật Tỳ Kheo thì chẳng thể làm hưng long Phật pháp, vượt qua luật Bồ Tát thời không được.

1.4.10 Nghi lớn nêu ít dụ:
Muốn giữ giới thanh tịnh phải rành 10 chi giới không nhiễm; từ đó ba tụ giới mới viên mãn. Nên luận Tát Bà Đa ghi rằng, nếu người thọ 5 giới mà phạm không cho thọ 10 giới. Nếu phạm 10 giới thời không được thọ giới cụ túc. Vì thế, Sa Di dù gặp kỳ Bố Tát mà không tụng giới đúng pháp đến độ lược bỏ trì phạm khuyên nhắc tu hành nửa tháng nhóm họp một lần, thuận theo mới đúng pháp, tức là đúng luật. Phàm gặp Bố Tát trước lễ sám hối cho Sa Di nhập chung là sai. Tăng lúc họp nhau tụng giới cũng cho Sa Di vào nhà lễ tăng, và xong lui ra rồi mới làm phép tụng giới; làm cho chúng nhỏ cũng dự với đại tăng nửa tháng một lần hầu sách tấn tu hành mà nhớ giới để tiến tu.

Trở lên bên trên 10 mục đại cương xong, từ đây trở xuống là 10 quy tắc Bố Tát.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34466)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33327)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56807)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39243)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38333)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52715)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36433)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32100)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43244)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31316)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36021)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28567)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29066)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31752)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28652)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 28965)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60794)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39520)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26484)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29508)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37138)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39873)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26716)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42443)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37045)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28145)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28765)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26269)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27044)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26079)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34330)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27658)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30305)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33046)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28357)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 29915)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25357)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21725)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51047)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26523)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28476)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27539)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24200)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27287)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31712)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30003)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27547)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35207)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27304)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29843)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31528)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22903)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 23984)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22866)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant