Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Bố Tát tóm tắt có 10 điều giới

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11941)
4. Bố Tát tóm tắt có 10 điều giới

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.4 Bố Tát tóm tắt có 10 điều giới:

Mỗi nửa tháng có trăng hay không trăng các vị Tỳ kheo đều phải Bố Tát. Bảo Hoa Sơn ở Giang Nam có ngài Độc Thể hiệu đính Luật Tỳ Kheo; nguyên bổn gồm hai quyển: Quyển thượng bao gồm 27 mục, quyển hạ phần chánh có 44 mục. Nay ở phần cương mục đó lại rút ra đại cương, ghi gọn chỉ còn 10 điều như: 

1.4.1 Luận chung nhị thừa: Đại ThừaTiểu Thừa
1.4.1.1 Tiểu Thừa
Tiểu thừa gồm 7 chúng:

1- Tỳ Kheo

2- Tỳ Kheo Ni

3- Thức Xoa Ma Na

4- Sa Di

5- Sa Di Ni (5 chúng trước thuộc chân đế); 

6- Ưu bà tắc

7- Ưu bà di (2 chúng sau thuộc tục đế). 

1.4.1.2 Đại Thừa
Bảy chúng Đại Thừa là người phát Bồ Đề tâm thọ đại giới Bồ Tát

1.4.2 Tôn trọng đúng luận sự lầm lỗi: 
Phật dạy mỗi tháng lấy ngày Rằm là ngày có trăng giữa tháng Bố Tát; lấy ngày 30 là ngày không trăng (hắc) giữa tháng Bố Tát. Nếu tháng thiếu lấy ngày 29 làm ngày không trăng trong tháng Bố Tát. Ngày nay theo lệ đó mỗi tháng 2 ngày Rằm, Mồng Một là ngày có trăng và tối trời Bố Tát nửa tháng có trăng thay phiên tụng giới; đối với nửa tháng không trăng thời không có Bố Tát. Tham cứu sâu theo quy tắc này chưa xác định sai lầm có từ lúc nào, cứ hễ thấy trước làm khiến sau làm theo do quen đã thành nếp sẵn. Căn cứ theo luật thuyết giới Kiền Độ ghi rằng, người phạm không được tụng giới, cũng không được nghe giới. Không được hướng về người phạm cầu sám hối; kẻ phạm cũng không được nhận người khác sám hối. Phải hướng về người thanh tịnh cầu sám hối, tụng và nghe giới. Phần này nói rõ trước khi Bố Tát phải bày tỏ lỗi lầm qua phần tác pháp Yết Ma. Cho nên tôi dựa theo đúng luật chỉ đúng chỗ sai lầm, luôn lấy ngày có trăng giữa tháng nhằm 14 sám hối trước đến ngày Rằm mới Bố Tát. Nửa tháng không trăng ngày 29 lễ sám hối và ngày 30 Bố Tát. Nếu gặp tháng thiếu lấy ngày 28 sám hối và ngày 29 Bố Tát như qui định sẵn. 

1.4.3 Tuân lời dạy cổ nhân
Như Tỳ Kheo ở trụ xứ phạm luật mà nghỉ Bố Tát, tụng giới. Những người phàm làm một viêc không có công đức, trái lại còn rước lấy tội. Lấy sở y cho là phi, nhưng năng y cũng thành phi nốt. Luật Tứ phần ghi rằng, nếu làm pháp Yết Ma hẳn phải trước khi kiết giớicăn bản là luật Tăng Kỳ, Ngũ Phần, Luật Thập Tụng. Tuy 5 bộ luật mỗi bộ còn có tông chỉ, chí như một pháp Yết Ma mà không y theo tác pháp là việc sai lầm đầu tiên. Song giới có hai: 

a) giới tác pháp: lấy việc nhóm chúng lập tiêu chuẩn như xướng tướng, vấn hòa, trình bạch, nhận cho. Trước hết kết nội giới trường và sau đó kết ngoại (đại) giới trường. Sau hết nêu lên tiêu chuẩn tướng đại giới trường, nhưng kết chẳng mất theo hạn giới 

b) tự nhiên giới có 4 tiết: 

1- thôn trang 

2- am thất 

3- đường đi 

4- Chỗ có nước. 

Bốn phần nầy mỗi phần có giới hạn thiên nhiên, vì thế không phân hạn giới, cũng như không nêu tướng giới chỉ tác bạch chấp nhận mà thành thôi. Riêng Tỳ kheo ni nương tựa hạn giới của Tăng cũng theo tiêu chuẩn nầy. Nếu như Bồ Tát Tỳ kheo kết giới cũng theo y như trên. Y cứ theo kinh Địa Trì ghi rằng Bồ Tát Tỳ Kheo tăng không kết giới là khinh lờn lời Phật; cũng như không giữ gìn luật Tăng. Như thế phàm chỗ ra làm đều không thành vậy. Tại sao thế? Vì không kết giới trường thì không hội đồng giới sư (10 vị) bạch bốn lần yết ma, không truyền giới chỗ công khai. Không kết đại giới tràng là Bồ Tát tụng giới không thể thuyết dục hòa tăng được; không kết y giới thời không thâu nhiếp như chim không có đôi cánh. Nên biết rằng Bồ Tát Tỳ kheo tăng phàm ở chung một trụ xứ nhưng pháp Tỳ Kheo tăng riêng, bạch hai lần yết ma kiết giới. Tiểu chúng 3 người tùy thuộc nội giới của đại tăng

1.4.4 Cử xứng người đức độ:
Định kỳ tác pháp có nêu rõ Bố Tát ngày không trăng hay có trăng, chư Tăng vân tập tụng giới, nên chọn người mô phạm có khả năng tụng. Như người giới đức song toàn, niên lạp hơn 5 hạ, có trình độ hiểu biết giải quyết được mọi nghi vấn. Nghe trong tăng bạch hai lần yết ma có khác, nên hễ mỗi chức danh của Nhị Thừa ắt phải nghiên cứu rành luật Tứ Phần. Kinh Phạm Võng ghi: Nhị Thừa chọn khác đã quen như thế rồi. Lại như trong cái hay thông thường mỗi người có khác, giới hạn thời 7 chúng Tiểu Thừa; tình cờ đủ duyên gặp chúng tụng bổn giới đã thọ. Nếu như trong nội giới Tỳ Kheo tăng nên mời riêng một vị đọc giới Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni cũng vậy, cho chí Ưu Bà Di hẳn không có phần nghe tụng giới, nên nói giới hạn là vậy. Phổ thông là 7 chúng Đại Thừa gặp duyên tình cờ nhóm lại tụng Phạm Võng giới. Bất luận tụng giới gì nên mời một Tỳ kheo Bồ Tát giới đại diện trong chúng tụng giới. Nếu khôngTỳ Kheo mà chỉ có 6 chúng thôi nên mời Tỳ Kheo ni Bồ Tát trong chúng như người thay thế tụng giới. Thậm chí nếu không có 6 chúng trên mà chỉ có Ưu Bà Di Bồ Tát giới liền mời vị ấy đại diện tụng giới thay chúng. Vì 7 chúng Đại Thừa đều cho nghe tụng giới nên gọi là chung hay phổ thông là vậy. 

1.4.5 Hòa chúng thanh tịnh nơi tịnh đường:
Căn cứ theo như trong luật ngày Bố Tát phải quét dọn sạch sẽ, trải tọa cụ, chuẩn bị nhang đèn, hoa quả, đồ đựng nước tại thiền đường… Vị thượng tọa phải dạy Tỳ Kheo nhỏ tuổi và vị nhỏ tuổi y lời dạy như pháp mà làm. Nếu trên không dạy, dưới không biết đâu mà làm đều phạm tội vượt luật tắc. 

Về thiết tòa có hai loại: 

a) Tòa cao dùng để ngồi tụng kinh hay đăng đàn.

b) Loại thấp để cho người ngồi nghe hay tọa thiền. Loại tòa cao nên dùng bông hoa trang trí chỗ ngồi, cần treo đèn đuốc để phòng trời tối. 

Đồ đựng nước có hai thứ: 

a) Nước rửa chân 

b) Nước rửa tay. 

Sa la gọi là nhà che mưa nắng, nhưng nay cũng gọi là thiền đường hay tịnh đường.

1.4.6 Khiêm nhường kính trọng pháp Đại thừa, Tiểu thừa:
Tuy cùng tụng giới Bồ Tát, nhưng dựa theo giới Đại Thừa, nếu khi tụng giới Tỳ kheo nên theo thứ tự tuổi hạ của tăng. Giải thích thêm; Bồ Tát chúng Tiểu Thừa lại nương giới Tiểu Thừa theo thứ tự mà ngồi; nơi chúng Đại Thừa thời nương giới Đại thừa theo thứ tự mà ngồi. 

Lại có người thọ giới Tỳ Kheo trước sau mới thọ giới Bồ Tát thời ngồi theo giới lạp Tỳ Kheo. Như thọ giới Bồ Tát trước, sau thọ giới Tỳ Kheo, theo như Đại Thừa dựa theo thứ tự giới Bồ Tát thọ giới Tỳ Kheo mà theo thứ tự, Tỳ Kheo ni cũng như thế. 

Số tiểu chúng 3 người thời có 2 trường hợp

a- Tiểu thừa tính người lớn tuổi 

b- Đại thừa tính theo giới mà sắp thứ tự, hai chúng tại gia cũng thế

Như 7 chúng Bố Tát tập họp tại một giới trường theo thứ tự: 

1- Tỳ kheo Bồ Tát 

2- Tỳ Kheo ni 

3- Thức Xoa Ma Na 

4- Sa Di 

5- Sa Di Ni 

6- Ưu Bà Tắc 

7- Ưu Bà Di

Giới tuy có thứ tự như thế, nhưng theo thiền môn việc ra vào có qui tắc như nêu rõ ở trước. 

1.4.7 Hợp đồng giản dị, có 5 loại giản dị như: 
1) Phổ thông theo thế tục, người đời lầm lẫn nơi già lam gặp ngày Bố Tát sắp đặt lễ tiết 

2) Người nữ tín tâm trí thức, nếu đăng đàn giảng kinh diễn nghĩa phải thật thấu đáo văn - tư - tu. Còn như trong tăng tụng giới làm pháp Yết Ma, vị ấy tự biết mà tránh xa đi chỗ khác 

3) Người xuất gia nhỏ tuổi, tuy còn thói nhiễm do chưa gần bậc viên giác. Vì thế hễ lúc làm pháp Yết Ma phải nên đứng tránh chỗ thấy nhưng không nghe (tăng yết ma) và không được nghe lắng. 

4) Tỳ Kheo phạm giới không được nghe tụng giới; phải đợi hối lỗi thanh tịnh mới được chấp nhận

5) Ni xưng là á tăng (cải dạng) vào trong tăng Bố Tát thời khác với Tỳ Kheo tăng. Vì thế nửa tháng Ni phải đến thỉnh tăng giáo giới vào đúng lúc Tỳ kheo Bố Tát. Ngõ hầu hỏi đáp có được không mới là ngày của chư Ni tụng giới. 

Luật ghi rằng, Tỳ Kheo Bố Tát ngày Rằm, Tỳ Kheo Ni Bố Tát ngày 16 là vậy.

1.4.8 Vâng pháp thính giáo:
Y cứ theo luật, sau khi đức Phật Thích Ca thành đạo trong vòng 14 năm Di mẫu cùng 500 Thích nữ xin xuất gia. Lúc đầu Ngài không nhận, A Nan thay lời bạch đến lần thứ ba, Phật mới hứa khả. Phật dạy ngài… A Nan trao truyền 8 kỉnh pháp. Cho Ni chúng xuất gia rồi còn có vấn đề khiến Tỳ Kheo Ni nửa tháng vào ngày Bố Tát, phải đến trong Tỳ Kheo tăng cầu thỉnh giáo giới. 

Lại hỏi: có thể thuận cho không? 

Chúng Tỳ Kheo trong khi tụng giới nên hỏi rằng, ai sai Ni đến thỉnh giáo giới? Nếu có tức theo đúng pháp mà sau đây sẽ thấy rõ. Nếu có thể y giáo phụng hành (y lời dạy vâng làm ) thời chánh pháp còn tồn tại ở đời 1000 năm. 

1.4.9 Giới thành tựu hợp pháp:
Lấy giới (đàn tràng, hạn giới) làm sự, là nương nơi pháp; tăng là người thừa hành pháp sự. Theo Tiểu Thừa qui định như luật Đàm Vô Đức có độ 184 pháp yết ma bao hàm tất cả thời và phi thời. Luận về Đại Thừa Tỳ Kheo tăng, nghi thức Bố Tát nửa tháng cũng giống như Tiểu Thừa. Có điểm khác là Đại Thừa trong đó có Ni thuộc 7 chúng đều được nghe Kinh Phạm Võng; tạm chấp chỗ phức tạp đặt pháp Tiểu Thừa mà không học thời trọn không phải Phật tử, thật là người si mê. Kinh Địa Tạng Thập Luân ghi rằng, si mạn cho Đại Thừa là không có lực trí huệ; còn mê mờ pháp Nhị Thừa huống gì hiểu Đại Thừa, thì Bồ Tát tăng ấy rốt cuộc cũng không tôn trọng pháp Tỳ Kheo Tăng. 

Phép tụng giới đúng có 4 loại riêng biệt: 

1) Duy Đại kiêm Tiểu 

2) Duy Tiểu kiêm Đại 

3) Chỉ có Tiểu không Đại 

4) Chỉ có Đại không Tiểu. 

Nay dựa theo đương thời vã để 3 loại trước, loại bốn chỉ có Đại không Tiểu. Nếu trong một đàn tràng bao hàm Tỳ Kheo tăng Bồ Tát, gặp ngày Bố Tát, trước hết phải tập trung tại phòng tụng giới Tỳ kheo, sau đó vào chánh điện tụng giới Bồ Tát. Giá gặp trở ngại như địa điểm tụng giới quá xa, trước tụng lược giới Tỳ Kheo, sau tụng đủ giới Bồ Tát. Nếu nạn xảy ra quá gần Nhị Thừa đều lược giới; như gặp nạn bức bách sát bên có tụng lược cũng không được nữa, bèn phải thưa rằng: chư Đại Đức hôm nay là ngày Rằm Bố Tát mỗi người nhiếp thân, khẩu, ý đừng có buông lung. Nói như thế rồi mỗi vị tự ý giải tán. Đây là nạn duyên gấp phải như vậy. Song tuyệt đối người chưa nghe thọ giới mà không tụng giới không được gọi là Tỳ Kheo Bồ Tát. Kinh Phạm Võng ghi rằng, nếu thọ Bồ Tát giới mà không tụng giới thời chẳng phải là Bồ Tát, không phải là chủng tử Phật. Hơn nữa trụ trì tăng bảo mà không đúng giới luật Tỳ Kheo thì chẳng thể làm hưng long Phật pháp, vượt qua luật Bồ Tát thời không được.

1.4.10 Nghi lớn nêu ít dụ:
Muốn giữ giới thanh tịnh phải rành 10 chi giới không nhiễm; từ đó ba tụ giới mới viên mãn. Nên luận Tát Bà Đa ghi rằng, nếu người thọ 5 giới mà phạm không cho thọ 10 giới. Nếu phạm 10 giới thời không được thọ giới cụ túc. Vì thế, Sa Di dù gặp kỳ Bố Tát mà không tụng giới đúng pháp đến độ lược bỏ trì phạm khuyên nhắc tu hành nửa tháng nhóm họp một lần, thuận theo mới đúng pháp, tức là đúng luật. Phàm gặp Bố Tát trước lễ sám hối cho Sa Di nhập chung là sai. Tăng lúc họp nhau tụng giới cũng cho Sa Di vào nhà lễ tăng, và xong lui ra rồi mới làm phép tụng giới; làm cho chúng nhỏ cũng dự với đại tăng nửa tháng một lần hầu sách tấn tu hành mà nhớ giới để tiến tu.

Trở lên bên trên 10 mục đại cương xong, từ đây trở xuống là 10 quy tắc Bố Tát.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26550)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28183)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29290)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33172)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21687)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30541)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31165)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37006)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32191)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 26996)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20540)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22154)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23892)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22778)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23104)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30310)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29993)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23062)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22250)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21705)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28102)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19189)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20094)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30829)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41437)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32626)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19080)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33939)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24898)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23627)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25247)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27693)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24918)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23759)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58542)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23142)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20801)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28025)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28807)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19154)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24485)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21375)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23722)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28549)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29312)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17599)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 30921)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25240)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18887)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20048)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23856)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 18984)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20076)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19986)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24783)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19360)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22497)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61705)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31058)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22029)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant