Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Hộ giới

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12555)
7. Hộ giới

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.7 Hộ giới:

Tiếng Phạn là Bố Tát Trung Hoa dịch là ngã đối thuyết (nói với tôi), có nghĩa nhắm tướng thuyết tội; bèn phỏng theo nửa tháng sám hối mà dịch. Cũng dịch tịnh trụ thiện túc, có nghĩa bỏ xấu ác mà chứng pháp thiện lành, thân tâm được thanh tịnh y giới mà trụ. Cũng dịch là thuyết giới, có nghĩa là nửa tháng nhóm chúng tụng giới làm cho tăng trưởng pháp lành, giữ gìn tự tâm, nên biết Bố Tát đúng là điều quan trọng của việc hộ giới. Kinh Phạm Võng ghi rằng, nay tôi mỗi nửa tháng tụng giới pháp của chư Phật, hết thảy các vị phát tâm Bồ Tát cũng tụng, cho đến 10 phát thú, 10 trưởng dưởng, 10 Kim Cương, thập địa chư Bồ Tát cũng tụng như vậy. Vì thế giới quang từ miệng phát ra; có duyên chẳng phải không nhơn nên gọi là quang. Quang này chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen; chẳng sắc, chẳng tâm, không hữu chẳng vô, chẳng phải pháp nhân pháp quả. Là bổn nguyên của chư Phật, là căn bổn của Bồ Tát đạo, là căn bổn của chúng Phật tử. Vì thế chúng Phật tử nên thọ trì, phải đọc tụng, nên cần học… đây gọi là hộ giới vậy. Hộ giới có thể tướng riêng biệt nửa tháng Bố Tát, cho chí đạo cụ, hộ giữ các tướng đó. Thọ giới chỉ một lần, giữ giới suốt trọn đời. Tân giới đối với các điều răn như 10 giới Sa Di, 24 oai nghi, Tỳ Kheo 250 giới, Bồ Tát 10 giới trọng, 48 giới khinh v.v… Tại giới trường đã đọc kỹ khai - giá - trì - phạm cũng như nghe giảng giải sơ phát tâm đâu chẳng tuân giữ. Vì lo sau khi ra khỏi giới trường dần dà gần gũi người xấu, dần nghe tà thuyết vi phạm không Bố Tát, không trì giới làm rối loạn chân tâm, bèn thành việc ma. Bắt đầu ăn phi thời, kế tiếp uống rượu, thậm chí ăn thịt, lại còn dâm dục… không việc gì mà không làm cả, thương thay! Dưới lớp áo cà sa đã đánh mất nhơn thân. Nghĩ lại xuất gia thọ giới những gì phải làm? Vì thế, Phật dạy, Tỳ Kheo các con phải tự sờ đầu mình. Sờ đầu để biết đầu mình cạo bóng, biết ta là con Phật, nên theo lời Phật dạy lấy giới làm thầy, y theo pháp 4 niệm xứ mà an trụ. Thà giữ giới mà chết chứ chẳng bằng phá giới mà sống! Giới luật thanh tịnh thì thiện pháp phát sanh. Kinh ghi rằng, tinh tấn giữ giới thanh tịnh, gìn giới như giữ châu sáng. Đó là y tướng giữ giới vậy.

Kế nói về y thế mà hộ giới, khởi đầu là 5 giới, cuối cùng là 3 tụ giới, tất cả các giới tướng so đồng nhất thể. Luật qui định phàm trước khi thuyết giới đều nói: nay vì ngươi mà tuyên đọc Yết ma Tam quy làm cho ngươi tự cảm phát giới thể, cho chí lời kết rằng, trở lên Tam quy chính là dung cái thể nơi tâm, nên biết ba Quy là hết thảy giới thể, vì thế nói là thể. Ba quy y theo sách Chánh Phạm ghi rằng, đem huệ thật tướng hiểu rốt ráo các pháp là phi không phi hữu; cũng không cũng hữu; cả hai đều quên, cả hai đều chiếu, 3 trí tròn sáng, đó là tự tánh Phật bảo, biết rõ lý của Pháp tánh. Ba đế đầy đủ là tự tánh Pháp bảo; trí hiểu biết nầy cũng hòa hợp sự lýtự tánh Tăng bảo. Ba quy y như thế gọi là giới thể. Lại thỉnh Tỳ Kheo giới, sách Chánh Phạm ghi rằng, thập sư trên tòa vừa đến sáng nay nắm giữ vai chính lúc yết ma làm cho giới tử phát tâm thượng phẩm nghĩ tới nghiệp lực dụng tưởng khắp pháp giới, biến khắp các cảnh trần. Nhưng cảnh tùy tâm hiện; song chỉ hiện cảnh, chẳng có biểu sắc tức là giới, cái thể của cảnh trần cũng được cái nhân của giới. Nếu chưa đủ duyên nghĩ tới việc lãnh thọ như trên, thể của cảnh trần này không buộc nơi ngươi. Chỉ một khi phát tâm sau khi suy nghĩ lãnh thọ rồi, đây là thể cảnh trần pháp giới luôn nương tự tâm các ngươi, niệm niệm chẳng quên mất; luôn luôn giữ gìn là lấy giới làm năng y, tâm làm sở y. Tâm – pháp hòa hợp gọi là giới thể. Cái thể này như kinh Phạm Võng cho rằng chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, chẳng sắc, chẳng tâm, phi hữu phi vô, chẳng phải pháp nhân pháp quả, vốn không thể hộ, do bội giác hiệp trần (xoay lưng với giác hiệp theo trần), mê mất bản chơn, chấp nơi tà kiến như thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ, kiến thủ. Do 5 món kiến này sanh ra 62 kiến, do các kiến chấp đó nên không dứt sanh tử. Vì thế, giữ giới phòng ngăn nó không cho gần. Đó là y thể mà hộ giới vậy. Nơi mười triền[15], mười sử[16] cho chí tám vạn bốn ngàn trần lao vọng tưởng phiền não đều nên hộ trì làm cho vắng lặng. Kinh Lăng Nghiêm ghi rằng, hết thảy chúng sanh đều do không biết thân tâm thường trụ theo các vọng tưởng; tưởng đây không thật nên bị luân chuyển (xoay vòng). Kinh Hoa Nghiêm ghi rằng, Ta thấy khắp hết thảy chúng sanh có đủ trí huệ, đức tướng Như Lai. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì nhứt thiết trí, vô sư trí tự nhiên hiện tiền. Nên nói tri kiến biết tức là gốc vô minh; tri kiến không thấy nữa, đây là Niết Bàn vậy. Nghiệm xét như thế là hộ giới, như người chưa thể đạt đến rất khó, vã cần nương 4 niệm xứ quán, ngỏ hầu cũng có thể đạt được.

Chứng nghĩa ghi rằng, điều răn trong 7 chúng, nay đơn cử Tỳ Kheo là một chúng mà biết các chúng khác. Trong đây lấy giới làm thầy, y 4 niệm xứ mà trụ, thà giữ giới mà chết còn hơn không giữ giới mà sống. Bốn lời nói trên đã bao hàm hết thảy các điều giới. Nay thử lược nêu vài điều để chứng minh việc hộ giới, trong đó có thô - tế - khinh - trọng đều nên tinh ý giữ gìn không trái phạm. Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo Ngài A Nan rằng, con tu thiền định để ra khỏi trần lao mà tâm dâm không trừ thời trần không thể thoát được. Giả sử đa trí, thiền định hiện tiền, nếu không đoạn dâm ắt rơi vào ma đạo. Thượng phẩmma vương, trung phẩmma dânhạ phẩmma nữ. Chúng ma kia mỗi loại tu Tam muội để ra khỏi trần laotâm sát hại không trừ thời trần không thể thoát được. Giả sử đa trí, thiền định sẵn sàng, nhưng không đoạn sát sanh ắt rơi vào thần đạo. Thượng phẩm làm người, làm đại lực quỉ, trung phẩm làm dạ xoa phi hành, điều khiển các quỉ, hạ phẩm làm la sát địa hành. Các loại quỉ thần cũng có đồ chúng, mỗi loại tự cho rằng đã thành vô thượng đạo v.v…

Phật lại dạy: con tu tam muội để ra khỏi trần lao mà tâm trộm cắp không trừ trần không thể thoát được. Giả sử đa trí thiền định sẵn sàng, nếu không đoạn trộm cắp hẳn rơi tà đạo. Thượng phẩm làm tinh linh, trung phẩm làm yêu tinh, hạ phẩm làm người tà tâm. Các loài yêu tinh chấp chặt vào những tà pháp của chúng; chúng cũng có đồ đảng, mỗi bọn họ tự cho rằng đã thành vô thượng đạo v.v… Phật lại dạy: Ba hành đã tròn đủ, nếu đại vọng ngữ cho là thiền định không đạt thanh tịnh, thành ma ái kiến mất chủng tánh Như Lai (Phật). Cho nên chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng nói chứng… là một điên ca tiêu diệt giống Phật. Như người dùng dao chặt cây Đa La, Phật bảo người đó vĩnh viễn mất hết thiện căn v.v… Đây là vấn đề hộ giới rất rộng, rất sâu vậy. Sách Thiền Tông bí yếu ghi, xưa có trạng hỗ Ngũ Vân gặp vị thiền sư một hôm đi dự tiệc; có một thần nhân quỳ gối phía trước. Sư hỏi rằng ngươi là ai vậy?

- Đáp: Thần hộ giới.

Thiền sư nói: cái họa của ta kiếp trước chưa hết, ngươi có biết việc đó không?

- Hỏi: sư có tội gì? Chỉ có một lỗi nhỏ thôi mà!

- Sư hỏi: là lỗi gì?

- Phàm đổ nước bình bát cũng là vật của thí chủ, sư bèn đổ bỏ đi, chẳng phải việc nên làm, nói xong liền biến mất.

Từ đó thiền sư rửa bát lấy nước uống hết.

Ngoài ra Luận Đại Trí Độ ghi rằng, có một vị Tỳ Kheo ở trong rừng đi kinh hành bên bờ ao sen, nghe mùi thơm của sen, sư kê mũi hửi, tâm ưa đắm thích. Vị tri thần hiện ra nói:

- Sao ông bỏ thiền lấy trộm hương? Chỉ đắm mùi hương mà các kiết sử lắng (chìm) xuống nay đều khởi lên. Khi đó có người canh cắt hoa, đào gốc mang đi. Thần không nói một lời nào cả. Tỳ Kheo hỏi rằng:

- Người này phá ao lấy hoa, ngươi không nói; ta chỉ hửi mùi thơm liền bị quở trách là tại sao?

Địa thần nói: người ác ở đời thường bị lấm phân dơ, bất tịnh mất đầu, ta đâu đề cập tới làm gì. Ngươi là người tốt hành thiền mà còn đắm mùi thơm làm hỏng mất điều tốt. Vì thế phải trách ngươi, ví như tấm đệm mới trắng sạch mà bị một chấm đen vấy vào, ai thấy cũng lấy làm tiếc. Người ác kia cũng như chiếc áo đen dính mực, ai thấy tiếc bao giờ? Việc hộ giới đây cũng thế rất là tinh vi tế nhiệm. Ôi, há không cẩn thận sao! Trước nhất gọi là trì giới mà khởi sự sơ tâm không chịu cầu giới, nhẫn đến dựa thể mà gìn giữ, nên học rộng kinh Bát Nhã, Hoa Nghiêm phẩm phạm hạnh, kinh Niết Bàn phẩm phạm hạnh, cho chí kinh điển của Thiên Thai tông đều nên thực hành. Như nói nhân giới sanh định, nhân định phát huệ còn chưa theo kịp

Trước hết quán bốn niệm xứ

1) quán thân bất tịnh 

2) quán thọ là khổ 

3) quán tâm vô thường 

4) quán pháp vô ngã

Quán bốn pháp niệm xứ này là điều căn bản của sự tu hành, là khí cụ của hộ giới; vì thế mượn đó đây kết lời khuyên này.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19794)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28900)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20631)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19374)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30417)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36357)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33143)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35477)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20921)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21869)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25212)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25747)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31209)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18518)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25074)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23725)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28876)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20813)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31411)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25505)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29670)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22468)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25675)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23209)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25703)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23685)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40561)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23303)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22392)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22036)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23466)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16931)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23258)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24260)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41031)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18940)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20438)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27687)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38061)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34025)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36748)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23953)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29129)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60075)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27554)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68653)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24473)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24435)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22635)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26305)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26483)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20749)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20005)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27498)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46311)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53480)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23553)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21034)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25516)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29190)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant