Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Đạo cụ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12554)
8. Đạo cụ

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.8 Đạo cụ:

Đạo cụ là vật riêng của Tỳ Kheo Bồ Tát tăng dùng, thuận đạo là vật làm gia tăng pháp thiện. Y cứ theo kinh Phạm Võng có 18 loại đem so với luật có hơi khác. Nay phải hiệp chung mà thuật như sau: 

1) An đà hội là y 5 điều 

2) Uất đa la tăng: y bảy điều 

3) tăng già lê: đại y có 3 phẩm: 

- Phẩm thượng y 25, 23, 21 điều,

- Phẩm trung, y 19, 17, 15 điều, 

- Phẩm hạ, y 13, 11, 9 điều gọi là y phước điền.

Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật ở trước động đá Đế Thích thấy ruộng lúa có bờ ngăn phân minh, nên bảo A Nan rằng chư Phật quá khứ y hình tướng như vậy; từ nay dựa theo hình này may y. Sách Tăng Huy Ký ghi rằng bờ ruộng giữ nước cho lúa mạ sanh trưởng để nuôi thân mạng; ruộng pháp y thấm nhuần vì 4 điều lợi của nước, làm tăng 3 mầm thiện để nuôi pháp thân huệ mạng, nên gọi là y phước điền. 4) Ni sư đàn: tọa cụ trải ngồi thiền cũng gọi là tùy tọa y. Luật Ngũ Phần ghi rằng, vì hộ thân, hộ y, hộ giường nệm nên sắm tọa cụ. 5) Tăng kỳ chi: áo đơn (lót) cũng gọi là áo che trong hay áo lót mồ hôi 6) Nê phược ta la: quần thiền thường gọi là kim cang khố (quần đùi), tọa thiền nạp tử, làm cho được tiện lợi 7) Trực chuyết: áo dài chấm sát đất, thường gọi là bào tử, cũng gọi là hải thanh. Trở lên 3 món trích từ luật Tỳ Ni. 8) Bát Đa la: bình bát, Trung Hoa dịch là Ứng lượng khí. Y cứ theo Tây Vức (Ấn Độ) chư tăng đều đi trì bình khất thực. Bát này tùy sức dùng của mỗi người mà có nhỏ lớn khác nhau. Lấy một bát ăn no là lượng, cho nên gọi là đồ lường thích hợp. 9) Tỏa khí la: tích trượng. Căn cứ theo kinh có 2 loại: một loại 4 đốt 12 khoen mà thời nay dùng; một loại là 2 đốt 6 khoen (vòng) hình nhỏ, nặng một cân mà hồi Phật tại thế Tỳ Kheo hay dùng. 10) Trụ trượng: gậy chống. Luật Tỳ Nại Da ghi rằng, Phật nghe tiếng lắc cắt gậy chống, vì biết già lụn mất sức, hay người bịnh khổ thân nên phải dùng. 11) Phất tử: phất trần (bụi). Luật ghi rằng Tỳ Kheo sợ bị cỏ, côn trùng nên làm đồ phủi bụi (phất trần). Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật cho làm tuyến phất, quặc phất. Nếu đuôi ngựa hay vật kim ngân báu quí trang trí đều không nên cầm. 12) Sổ châu: chuỗi tràng hay tràng hạt niệm Phật, phần nhiều lấy gỗ tiện 18 hột, 108 hột làm một xâu đeo nơi thân. Trở lên 3 vật trích từ luật Tỳ Kheo 13) quấn trĩ ca: bình đựng nước (quân đội dùng) thường chứa nước mang theo mình dùng uống hay rửa tay. Ký Quy truyện ghi rằng bình chứa nước quân nhân có 2 loại: bình bằng đất nung, nhôm dùng để uống và bình bằng đồng, thiếc để rửa. 14) Táo đậu; (xà phòng) tạo giác dùng để tắm rửa 15) Thủ cân: khăn tay 16) hỏa toại: hộp quẹt, dao lửa, đá lửa, giấy mồi lửa v.v… 17) Lự thủy nang: đãy lọc nước. Tăng Huy Ký ghi rằng, đồ vật dù nhỏ nhưng công dụng rất lớn để bảo vệ sanh mạng, cho nên dùng lụa thật nhuyễn may đó; lọc vi trùng trong nước mới có nước sạch để uống. 18) giới đao: dao cạo tóc. Căn cứ theo kinh Phạm Võng có thêm: tăm xỉa răng, giường dây, nhiếp nhổ râu, lư hương, hộp kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát. Kinh Phạm Võng lặp lại: đi hành cước xa nên dùng Kinh - luật - tượng. Luật tạng trọng ở phân ra khu phố khất thực nên dùng cây gậy, phất trần, chuỗi tràng hợp dùng chung là 26 thứ. Tăng hành cước có 26 món nầy như chim có đôi cánh thường đem theo bên mình nên gọi là đạo cụ vậy.

Chứng nghĩa ghi Luật Học Cương Duy nêu rằng đạo cụ hộ giới có 18 loại thường mang theo bên mình như: nhành dương, đậu tắm thoa mình, thắng nhiễm tục thời, 3 y vải vụn; ăn tạm thực thời một bát nuôi thân, đủ khai đất thánh. Bình đựng nước suối, tích trượng tiêu biểu hiền Thánh. Lư hương chỉ cái thể thanh tịnh, đãy lược nước cứu vật, khăn lau, đồ phất trần, dao dùng để hàng ma, đèn pin soi chỗ tối, nhiếp nhổ râu nhổ sạch phiền não; giường dây để dứt bỏ tánh cao ngạo. Tiến trình đãi lọc thành tâm giữ gìn 3 nghiệp. Tượng Phật biểu hiện quả, Bồ Tát làm sáng tỏ nhân. Ngoài ra, y cứ theo Ngài Ngẫu Ích sách Giới Y biện ngụy ghi rằng, người xuất giay pháp, cũng như quan có đồng phục vậy. Giới của 7 chúng không đồng, còn y cũng khác biệt. Phật dạy 3 y: tăng già lê là 9 điều hoặc 13 điều. 25 điều gọi là phẩm rốt sau, không phải là trên thượng phẩm, Uất Đa La tăng là y 7 điều và An Đà Hội chỉ y 5 điều. Ba y này đều gọi là Ca Sa phải là vải hoại sắc, không phải sắc são nên cũng gọi là y phước điền, vì hình chiếc y giống như ô ruộng phước. Ngoài ra cũng còn tượng trưng vị Tăng làm ruộng phước cho thế nhân. Là Tỳ Kheo nên có đủ 5 y, 3 y như đã nêu trên thêm áo lót mồ hôi và áo che cánh tay. Sa Di chỉ có 2 y: y trên tức y không có sọc ngang cũng gọi là mạn điều y, màu giống như Tỳ Kheo, giới là khác Tỳ Kheo, chỉ may thẳng không cắt thành ô (vuông). Luật ghi rằng, người cầu vắng lặng mặc lấy mạn y thường thường mặc y cắt mãnh mắc tội lạm dụng nặng. Bởi Sa Di tuy đã xuất gia vẫn chưa nhập vào hàng Tăng bảo. Vì thế, y 5 điều do không cắt mãnh, huống chi là 7 điều, 9 điều ư? Nội y tức là áo mặc bên trong để che lót mồ hồi. Là Bồ Tát tại gia tức là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thời không cho may y 5 điều mà qui định giống như Sa Di. Y của Bồ Tát tại gia chỉ mặc nơi đạo tràng lúc tu tập hành đạo, còn bình thường không được mặc đắp. Vì thế có khác Sa Di. Ngày nay, y của Tăng sai luật bày ra 9 điều cho thọ giới Sa Di làm cho có đủ 3 y, là một việc dối vậy. Sa Di cho đắp y 7 điều đâu có khác gì Tỳ Kheo là một việc dối thứ hai. Người trước không biết làm sai thường hay cho người cận sự đắp 3 y; người sau kiêu mạn phạm lỗi lầm, đều cấm cận sự không được đắp y 5 điều, là một việc dối thứ ba. Hết thảy qui định y đều lấy chiều đứng 3 khung, ngang 5 khung làm độ, giả sử có tăng giảm đôi chút cũng chỉ để cho phù hợp với tay và thân. Nay chiều đứng 3, chiều ngang 6 khung đó là điều sai lầm, là một việc dối thứ tư. Y phước điền chỉ tương tự hình thửa ruộng nay nhầm lẫn cho rằng, phải thông đường nước là điều dối thứ năm. Y 5 điều, 7 điều cũng tùy có loại vải cũ rộng hẹp mà may thành điều nhiều ít, nay lầm cho rằng, khối đó tượng trưng cho núi Tu Di, khối kia biểu tượng mặt trời, khối nọ tượng mặt trăng, khối đây tượng trưng Tứ Thiên Vương v.v…là điều dối thứ sáu. Tăng Già Lê dịch là Đại Y hoặc hợp trùng y hay còn dịch nghĩa là y tạp sắc do kết nạp nhiều mãnh vải lại may thành. Nay lạm dùng vải nhuyễn mịn, lại còn thêu hoa lên trên nữa, gọi là y thiên hoa, là điều dối thứ bảy. Quy định 3 y của thiên Phật có điểm đồng nên gọi y nghìn Phật. Sách Vân Thê Chánh Ngoa đã luận, nay còn thêu Phật nơi y, là điều dối thứ tám. Người xuất gia dùng tất cả y phục, tọa cụ đều hoại sắc; nay ngược lại lấy 5 màu may y rực rỡ, là điều dối thứ chín. Lại y cứ tấm tọa cụ xứ Tây Vức chỉ dùng riêng cho việc tọa thiềnĐông Độ dùng để lễ bái, không biết phát xuất từ lúc nào. Dựa theo luật Tứ Phần thứ 15 trong pháp xã đọa: phàm may tọa cụ mới đều phải dùng cái cũ may lên cái mới. Nay lầm dùng sắc mới vải mới viền 4 góc gọi là Tứ Thiên Vương, thật là quá sai lầm!

Bát Đa La dịch là ứng lượng khí, cái bát để lường thức ăn của tăng. Phật cho xử dụng sắt, đất nung v.v… tạo thành; nay lạm dụng bằng đồng, thau hoặc nhôm hay gỗ đều trái với quy định. Lại luật có ghi rằng bình bát dùng thuốc thơm xông kỹ khi đựng đầy vật vẫn không nứt, không rỉ chảy dầu mở v.v… cho nên ngày nay ta biết ăn canh không làm dơ bát, nhưng không biết dùng thuốc xông bèn cho đũa vào bát lấy thức ăn đưa vào miệng, thật là mất oai nghi. Ngoài ra, giới cấm không cho mang bát bằng vàng bạc, châu báu.

Tràng hạt: Kinh Đại Thừa Man Thù hiệu lượng số châu ghi rằng, lấy cây mộc liên tiện thành hạt, hạt Bồ Đề là tốt nhất. Ngày nay chuỗi tràng phần nhiều dùng vàng châu, vật quý giá, để như một phần làm đồ trang sức. Điều này làm tăng trưởng tham lam, lại dễ bị đánh cắp. Đây đều là dối trá không thể không luận cho đúng. Ngoài ra cho chí những đạo cụ khác tuyệt đối không dùng. 

Trong không có tâm hộ giới, ngoài không oai nghi gìn luật, làm gì không phạm qui chế tăng chứ? Mong sao hàng Thích Tử chúng ta cùng nhau duy trì chánh pháp ngỏ hầu vãn hồi (vớt vát) tệ nạn, làm giềng mối tăng già mới là tuân lời Phật dạy. Mong sao đối với việc tự lợi, lợi tha đừng cho rằng đây là chấp tướng, mà ẩn mình nơi nhãn hiệu vô tướng. Cũng không nên cho rằng ta là thiền tông dùng những đồ tu hạnh đầu đà này làm gì? Nghĩ sao không suy kỹ Ngài Đại Ca Diếpsơ Tổ thiền tông tại sao hành hạnh đầu đà đệ nhứt?
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26558)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28186)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29300)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33189)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21699)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30548)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31177)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37032)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32213)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27010)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20547)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22163)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23902)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22784)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23115)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30326)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30004)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23074)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22262)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21724)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28138)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19202)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20103)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30841)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41452)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32636)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19089)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33945)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24909)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23630)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25254)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27703)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24937)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23766)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58559)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23145)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20807)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28053)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28826)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19156)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24500)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21383)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23750)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28560)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29327)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17609)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 30949)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25261)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18903)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20062)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23872)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 18985)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20085)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19996)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24789)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19370)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22511)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61727)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31068)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22043)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant