Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Qui tắc Phật thất

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12683)
8. Qui tắc Phật thất

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7:
Chứng nghĩa
Phần sau

2. Chương 7: Phần sau - Đại chúng

 
2.8 Qui tắc Phật thất

Luận về Phật thất nguyên vì hiểu rõ chu kỳ lẽ sanh tử. Bảy ngày là một kỳ, mỗi ngày 6 thời không gián đoạn. Ban đầu một thất, 2 thất cho đến 3, 4 thất. Bốn phương thính chúng câu hội, nhất thời thắng hội rộng khai. Chỉ sợ lười dễ sanh, tinh tấn khó đến, nếu không ràng buộc lấy gì sách tấn thân tâm. Không có quy tắc lấy gì để người tin kính, nên cẩn trọng lược ghi những điều qui tắc như sau:

1- Trong 7 ngày đầu nên buông hết vạn duyên, phải dụng công không dứt, cần yếunhứt tâm bất loạn. Xem như trước mặt là một hội liên trì vậy.

2- Canh 5 nghe chuông liền thức dậy xuống giường, sau khi rửa mặt xong, tất cả chúng đều vào điện niệm Phật, không được nằm yên không dậy, lánh nhọc an thân.

3- Sáng mặt trời đã lên liền dùng cháo. Sau khi dùng cháo xong vào ngay chánh điện niệm Phật, chờ một cây nhang tàn mới đứng dậy đi kinh hành. Kinh hành mãi đến khi cây hương còn một tấc trở về chỗ ngồi niệm Phật. Cây hương khác đốt khẩn niệm hiệu Phật, nghe 3 hồi chuông dứt, đồng loạt nghĩ niệm. Nghỉ giải lao dùng trà xong, gõ mõ nhỏ khởi sự tiếp tục niệm.

4- Ngồi niệm tới hương cháy hơn một tấc, hai vị lãnh chúng Đông Tây đứng lên xoay mặt vào nhau xá một xá, nhìn lên tiến tới đi từ từ lên cầm phan chắc nơi 2 tay bước đi đều, theo hàng đôi. Giây lát, mõ dẫn 2 hàng người cùng đi, không được đi sai lộn. Thấy người nào ngà ngật, người cầm phan lớn tiếng niệm Phật đánh thức tĩnh đưa phan cho người đó cầm. Đương sự liền đi kinh hành, người cầm phan trước bèn ngồi thế chỗ y. Cứ theo phan, người kinh hành niệm Phật không thể ngủ, và lần lượt như thế mà nhắc nhỡ nhau. Đến lúc cây nhang còn hơn một tấc, mõ dẫn trở về chỗ ngồi, phan cũng trở về chỗ. Hai bên đối diện, người cầm phan cắm vào giá rồi về chỗ, cây nhang vừa cháy hết như trên.

5- Người cầm phan cần phải xem kỹ nếu thấy mắt nhắm tuy vẫn ngồi ngay, đầu thẳng, miệng niệm theo chúng. Người này hoặc hơi hôn trầm hoặc đang lúc đắc ý, không nên giao phan, không nên trao đổi qua lại, nếu đưa phan qua bị phạt. Nếu người đầu hơi cúi gật mới đưa phan cho cầm 

6- Người hôn trầm thấy phan đưa tới tâm sân nổi lên không tiếp cầm phan bị phạt quỳ một cây hương.

7- Người cầm phan trên tay mà tự ý chạy rối loạn hàng ngũ bị phạt

8- Người cầm phan, thấy có người hôn trầm đáng đưa cho cầm mà không đưa bị phạt

9- Kinh hành nên đi thứ tự không được rối loạn chen trước lấn sau, nghểnh cổ lắc đầu bị phạt. Nếu lánh nặng tìm nhẹ mình trần vào phòng, luận bàn tạp nhạp phạt gấp đôi.

10- Ngoài công tác ra, trừ việc Phật sự chung, thì giờ trống nên nhiếp tâm niệm Phật. Nếu dụm đầu lại nói chuyện bị phạt. Nếu lấy cớ có việc đi ra ngoài thả bộ, phát hiện ra được bị phạt nặng. Giả như có việc chung không đến được nên báo cho lãnh chúng biết rồi mới đi, ai vi phạm bị phạt.

11- Tàn một cây nhang xong, ai trực trong ngày rót trà hai bên, chúng tuần tự uống trà. Không được trà dư đổ hắt ra đất, ai phạm bị phạt. Làm vỡ chén phải đền. Dùng trà xong mới đứng lên, người nào đứng dậy trước bị phạt.

12- Lúc đi đại tiện giới hạn một tấc hương, đi tiểu hạn nửa tấc hương. Vô cùng lúc với người khác không được nói cười giao đầu kề tai nhau, ai phạm phạt quỳ hương

13- Khi tọa hương cây hương cháy quá hai tấc, Duyệt Chúng phải tuần tra hai bên xem có ai chưa tới, đem dời bồ đoàn (tọa cụ) ấy tới trước Phật, lúc người đó đến liền chấp tay quỳ niệm hương xong, nhè nhẹ đứng lên lễ Phật, xoay qua lễ Phương Trượng, rồi tự cầm bồ đoàn về chỗ ngồi..

14- Người sơ cơ không ngồi kiết già được có thể ngồi bán già cũng được; cần thiết là phải ngồi thân ngay thẳng 

15- Tiếng niệm Phật cần phải rõ ràng dứt khoát, không được cao quá, cao thì niệm không lâu được; cũng không được thấp quá, thấp là bị hôn trầm (ngủ gật), chỉ cần tiếng phát ra giữa môi và lưỡi; tâm niệm miệng xướng, tai nghe cho chí đứng - nằm - ngồi luôn luôn giữ một câu niệm A Di Đà Phật. Như thế mới tin được tiếng, tiếng nhiếp niệm; niệm niệm nhiếp tiếng đó là công phu, lâu ngày tự nhiên trở thành thuần thục.

16- Trong lúc tu Phật thất gặp bịnh duyên nên tin tưởng đức Phật A Di Đàvô thượng y vương. Nếu cố gắng nỗ lực không rời ma bịnh liền tiêu. Nếu như không thể tiếp tục được nữa cần phải nghỉ ngơi nên báo cho chủ thất biết, kế đến cho đại chúng biết. Phải dẹp bồ đoàn rồi mới ra khỏi chỗ. Không được cố kéo dài bịnh dây dưa làm hỏng tịnh nghiệp. Nếu có việc riêng ra khỏi chùa mà không báo cáo, bị phạt nặng.

17- Ở trong chúng hoặc đi tới lui hợm hĩnh, lời nói gây xích mích, sách động loạn chúng, đuổi khỏi chùa 

18- Trong chúng có lỗi, Duyệt Chúng đưa ra mà không chịu nhận bị phạt; người biết mà không nêu ra cùng bị phạt.

19- Trong đạo tràng có người già bịnh nên tìm cách tùy thuận không nên câu nệ quy tắc, như tùy hỷ niệm Phật; tạm đến rồi đi cũng không có nơi điều quy định này.

20- Dùng cháo tiểu thực đốt 3 cây nhang, dùng ngọ trai đốt 4 cây. Tụng thời kinh Tịnh Độ, lễ 12 lạy Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng Bồ Tát mỗi vị 3 lạy. Ba tự quy, lạy Tổ xong, uống trà, nghỉ giải lao xong đi kinh hành niệm Phật. Niệm 1000 lần hay quy định theo giờ giấc 15 phút, 30 phút hoặc 45 phút hoặc một tiếng đồng hồ xong trở lại hồi hướng.

Mỗi người về chỗ nghỉ ngơi, thầm niệm Phật rồi đi ngủ đúng theo thời biểu qui định không nên sai trái.

21- Đêm thứ 7 hoàn mãn phần hồi hướng, niệm Sám Văn Tây Phương; quỳ niệm Phật, Bồ Tát, Tự quy y xong, lui ra lễ Tổ. Đại chúng tới phòng Phương Trượng đảnh lễ 3 lạy và chờ Ngài khai thị xong, lễ tạ xong mỗi người tự lui về chỗ. Mỗi khi mãn thất, học chúng đi, đứng, nằm, ngồi đều thầm niệm Phật, kỵ nhất là bàn nhãm nói tạp; 2 thất, 3 thất đều áp dụng như thế.

22- Lấy trong Nội Quy mà nói phạt đều là phạt quỳ hương niệm Phật. Do vì nhân địangã xuống, trở lại nhân địađứng dậy. Chỉ nên một lần ngã mà đứng dậy chứ không nên vụt đứng vụt ngã, tự sai lầm không nhỏ vậy.

Trụ trì… cẩn sao lục.

Ngày… tháng… năm…

Chứng nghĩa ghi rằng, qui tắc tu tịnh nghiệp cùng Nội Qui Phật thất, tuy phân hai nhưng chú mục cảnh sách, đại bộ thật ra không có khác nhau. Phật thất thời gia công hành trì. Tư Tề đại sư nói rằng: “niệm Phật không là điều khó, khó là ở chỗ nhất tâm. Nhứt tâm cũng không khó, khó ở chỗ dứt gốc ái”. Nên quán thân thể nầy bẩn hôi khó mà nói hết được, trong ngoài và ở giữa không có một vật nào trong sạch cả. Cái thân này đã như vậy, thân khác cũng như thế; che dấu ác tâm thâm căn, cẩn thận chớ sanh tham đắm. Nên quán cõi Cực Lạc thuần là hoa sen sanh, không gá thai của cha mẹ nên thọ mạng vô cùng thanh tịnh.

Lúc nhứt tâm niệm Phật, hoa sen liền hóa sanh, nếu người niệm không gián đoạn quyết định được vãng sanh nước An Dưỡng. Lại nói rằng, Nam Mô A Di Đà người nào mà chẳng niệm được. Nếu niệm không cảm ứng như mẹ con khó gặp nhau. Đi, đứng và ngồi, nằm luôn phải buộc cột tâm niệm niệm tiếp nối liên tục, niệm đạt thành một khối. Niệm Di Đà như thế, Di Đà tự hiện đến, quyết định sanh Tây Phương, trọn đời không thoái chuyển.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13592)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25190)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13646)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 14967)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17474)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 16968)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14022)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13054)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14306)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19527)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16613)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18432)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18877)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18650)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21012)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14673)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 38982)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14294)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19179)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14579)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 15988)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15101)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14775)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 38864)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13962)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24311)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19277)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17818)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21308)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19547)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17343)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14670)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13756)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13634)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 13982)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21727)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16628)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15113)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14413)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 13913)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14235)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15491)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14850)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24510)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 22904)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28208)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14953)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 13991)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14469)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18140)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26339)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15048)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14711)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15067)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 14979)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant