Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phân từng khu phố (khất thực)

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12006)
10. Phân từng khu phố (khất thực)

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7:
Chứng nghĩa
Phần sau

2. Chương 7: Phần sau - Đại chúng

 
2.10 Phân từng khu phố (khất thực)

Y cứ khi Phật còn tại thế chư Tăng ban ngày phân ban đi khất thực. Ở Đông độ chưa tuân theo qui định này. Nên tòng lâm hoặc có ruộng vườn làm của hoặc thâu nhận của tín thí cúng dường. Mỗi tiết đông, tiết hạ hoặc gặp năm mất mùa, Trụ Trì đốc suất chúng đi khất thực một lần. Lúc đi khất thực, tri khách, Duy Na, Giám viện đồng tới phòng Phương Trượng để qui định ngày họp chúng sáng hoặc chiều. Sau khi nghe hai hồi bảng, Phương Trượng sai thị giả đi mời chúng tới trai đường bàn việc đi hoá duyên (hoá trai). Tới ngày ấn định, nghe hiệu lệnh đại chúng đắp y vân tập Phật điện chờ ra khỏi chùa đi khất thực. Tri khách mời Phương Trượng niệm hương, Duy Na cử bài tán hương. Phương Trượng lễ Phật xong, Duyệt chúng nhịp khánh, đại chúng đồng niệm Phật 3 lần. Thủ chúng cầm tích trượng đi trước, chúng thứ tự mà đi. Thị giả bưng bát đi kế bên Phương Trượng, nhận đồ cúng đưa thị giả bỏ vô bát. Tri khách chia 2 bên phố đi khất thực, chư tăng hàng một đi chậm rãi, có oai nghi trật tự. Đứng cho ngay ngắn, đi phải cho đều không được so le, nếu muốn đi tiểu trước phải giải y gởi cho người đồng hành. Chọn chỗ kín tiểu giải xong, rửa tay sạch sẽ liền theo chúng đắp y nhập đoàn. Nếu gặp thí chủ mời uống trà hoặc dùng ngọ trai tới chỗ thọ thực, cần phải giữ oai nghi phép tắc, khiến người ta thấy đem tâm cung kính, phát lòng hoan hỷ. Cho đến khi trở về chùa phải đến chánh điện đứng theo thứ tự thường lệ. Duy Na nhịp khánh, đại chúng đồng tụng bài tán hương, Phương Trượng lạy Phật. Đại chúng cùng lạy Phật 3 lạy rồi ngồi vào bàn thọ trai. Tối hôm đó, đại chúng dùng cơm thừa trong ngày. Mấy việc vừa nêu trên cần phải biết. Mang vác gạo thóc về chùa, Giám viện giao qua tri khố, kiểm điểm số lượng nhập vào kho, trình báo cho Trụ Trì biết và yết bảng báo cáo với đại chúng. Việc này liên quan tới huệ mạng chư Tăng. Đi đường ban chức sự phải giám sát (xem xét) không để xảy việc đáng tiếc. Do lầm nhân quả ăn của thường trụ (Tam Bảo) liền phải trả ngay.

- Chứng nghĩa ghi rằng, phân bố theo Tây Vức tại mỗi chùa chư Tăng đông không thể nào một gia đình cúng nổi; đi khất thực tùy khả năng thí chủ cho nhiều ít mà phân tán ra, cho nên gọi là phân vệ, tức phân theo khu phố.

Nghĩa của khất thực xem chương mở đầu phần chứng nghĩa về thâu nhận đồ cúng có nói rõ. Vì Phật bậc Năng Nhân xuất thế dạy chúng Thích Tử không chứa vật thừa để đắm tâm tham, ngăn phòng đạo nghiệp. Chỉ giữ một bình bát tùy thân, 3 y mặc trên người, gặp mỗi lúc cần thực phẩm đi đến nhà chúng đệ tử tại gia khất thực. Không chọn giàu nghèo, sang hèn mà đi khất thực bình đẳng. Đây là cung cách đi khất thực của đức Phật vậy. Ngài Tiêu Sơn Tánh Hải nói rằng, giới của Tỳ Kheo lấy 4 việc xả bỏ, 4 pháp nương tựa làm gốc. Bốn việc xả bỏ là giới đương giữ, 4 pháp nương tựa là chỗ đang ở chùa viện, đó là 4 nơi nương tựa: 1) ngày thứ nhứt thường đi khất thực, ngày thứ nhì giặt giũ y phục, ngày thứ ba ngồi dưới gốc cây tại lan nhã (vắng lặng), ngày thứ tư có bịnh lấy thuốc thục trị liệu; không đi khất thực đều mắc vào tà mạng để sống. Kinh Quyết Hậu Niết Bàn ghi, 4 vị tăng trở lên cùng ở chung được nhận 8 món đồ bất tịnh thời bửa ăn tăng tịnh thực có thể miễn đi khất thực. Cùng ở chung già lam (chùa) chúng có thể khỏi ngồi dưới cây, thí chủ cúng thức ăn có thể miễn trét phân; cúng thuốc men thường miển lấy thuốc củ nát, thời 4 nơi nương tựa đều mở cho. Vân Thê Liên Trì đại sư nói rằng, hồi Phật tại thế phân bố đi khất thực là theo đúng gia phong vậy. Tòng Lâm Đông Độ không thể làm theo không phải dám phế bỏ mà cũng do hoàn cảnh khiến như vậy. Luận về thành thị ô hợp nam nữ tụ hội; chỗ núi non vắng vẽ là nơi tịnh tu của người xuất gia, phân tán đó là được, hợp đó là rối loạn. Hơn nữa ở trong chúng rồng rắn lẫn lộn dễ sanh sự làm mất thanh danh. Cho nên các bậc tôn túc xưa mỗi vị ở nơi hang lạnh dứt tiếp xúc; cày ruộng bừa đất, ngày ăn một bửa nuôi thân. Không có vọng tưởng khác tức bỏ thành thị ở Tòng lâm, cũng phải lo chuyện đi quyên giáo; không để đại chúng suốt ngày bươn chãi mà bỏ phế đạo nghiệp. Tuy không phải Phật dạy, cũng phù hợp tâm Phật là mỗi năm đi khất thực một lần cũng còn giữ được mẫu mực mà theo. Nếu là du tăng đi khất thực đúng ra không đi đơn độc một mình. Tôi, Nghi Nhuận nói rằng, trụ trì tòng lâm tôn trọng điều Phật dạy thường đi khất thực. Ở đây đưa ra một việc để nêu lên những việc khác. Vua Khang Hy nói Nam Nguyên Tín thiền sư ở chùa Tây Phương tại Duy Dương, lãnh chúng 30 năm, không lên yết kiến, chẳng chúc mừng không làm việc thế gian. Ngài chỉ lấy đạo làm chính, mùa đông, mùa hạ một tấm áo nạp; lạnh nóng chỉ một bình bát, khất thực bình đẳng; noi theo đó làm việc thường, sống thọ ngoài 70 tuổi, do chưa hề một ngày biếng lười. Trừ sách ngữ lục ra, còn có một quyển thi kệ hành cước. Nay chép ra mười bài cho người sau học hỏi. Luận về nghi thức của Phật trước đây có kệ rằng:

1- Phật xưa có dạy ôm bình bát

Ngày nay bắt chước chẳng hai cơ

Đạo vốn Không ai người thừa kế

Trăng dọi đáy hồ sóng hoa rơi

2- Cắt tóc, đắp y chẳng nệ

Sống đời khất sĩ hạnh cao xa

Bịnh suy tâm thoái nay tuổi già

Chín đĩnh dây tơ mỏi vọng vào…

3- Khất thực tự nhiên sống thanh bần

Đội trời, đạp đất không nhiễm trần

Bình bát hiện hoa chẳng phải sành

Trước mắt trông người thật tín thành.

4- Thẹn vì phước mỏng tài năng mọn

Một bát trọn đời thêm chẳng thuận

Bé mọn tùy duyên an giữ phận

Hiểu rõ kiếp không ấy trường xuân.

5- Đường dài bình bát chẳng ai thân

Động tĩnh hữu vô khắp xa gần

Giàu có tùy duyên nhờ rải phước

Công thành quả mãn được thi ân.

6- Trọn đời chớ bảo trì bát chăm

Hạt gạo làm tiêu kiếp đói thầm

Chợ búa lánh xa trần vắng lặng

An nhàn vui hưởng giữa thế nhân.

7- Khất thực trên đời đâu nhọc lao

Tiêu tán cống cao ngã mạn nhào

Sự tạp, lý thanh lọc trì bình

Gia phong nguyện lực hạnh thanh cao.

8- Chợ sớm nhao nhao lẳng tựa dầu

Vui trong khất thực để quên sầu

Xiển dương lời Phật không chi khác

Trừ sạch chướng ma dứt ác mau.

9- Khất thực trí cao rộng ươm mầm

Viện đình việc đáng phải kiên tâm

Chẳng y từ lực vung ba cõi

Ai tin tông Tổ đạo cao thâm.

10- Trí huệ chưa từng riêng lại qua

Một bát dứt nghi truyền pháp gia

Biết rõ não phiền đà dứt sạch

Nhập định không sai ấy chính ta.

Hỏi: đi khất thực không cần tham thiền ư?

- Đáp: đúng nhờ tham thiền để biểu hiện nghi khất thực đâu có gì trở ngại chứ? Xưa đức Thế Tôn một hôm dạy A Nan rằng: giờ khất thực sắp đến con nên vào thành trì bát. A Nan vâng dạ.

- Phật bảo: con đã trì bát, nên theo nghi thức của 7 vị Phật quá khứ.

- A Nan bèn hỏi: nghi thức của 7 vị Phật quá khứ như thế nào?

- Phật bảo A Nan: A Nan phải vâng lời.

- Thế Tôn nói:bưng bát đi đi!

Căn cứ theo đây, Phật lấy thiền cơ làm nghi thức khất thực thật rõ sáng tỏ.

Ngày nay người có ý chí đối với đạo, nên đi khất thực, thật quả đã tin lời dạy giữ thực hành, nghi thức giống thời Phật, tại sao trở ngại việc tham thiền?
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13657)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25314)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13721)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15020)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17588)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17055)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14144)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13133)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14382)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19656)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16697)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18543)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18983)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18780)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21095)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14750)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39101)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14372)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19269)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14647)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16070)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14626)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15171)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14853)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15488)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39024)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14069)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24436)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14319)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19405)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17936)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17445)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14777)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13852)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13728)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14045)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21853)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16700)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15192)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14491)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14012)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14318)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15600)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14273)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14964)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18497)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24596)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23049)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28451)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15035)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14070)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14569)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18241)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26437)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15135)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14778)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15146)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15086)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant