Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14. Văn Cảnh tỉnh đại chúng

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12121)
14. Văn Cảnh tỉnh đại chúng

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7:
Chứng nghĩa
Phần sau

2. Chương 7: Phần sau - Đại chúng

 
2.14 Văn Cảnh tỉnh đại chúng

Đại sư Từ Giác, Trách Công thuật:

Kết tập Thanh Quy là nền tảng của đại chúng mà trong 8 môn đều từ đây phát sanh. Cho nên ở quyển cuối này đưa ra nghĩa tổng quát. Luận về hai cây quế rủ che bóng, một cây trổ hoa thơm ngát, từ hồi tòng lâm thiết lập, điều chính yếuchúng tăng. Là vì khai thị chúng tăng nên có trưởng lão để làm biểu tượng cho chư tăng, có Thủ tọa gánh vác việc chư tăng, có Giám viện điều hòa chúng tăng; có Duy Na cúng dường chư tăng, có Điển tòa vì chúng làm việc. Có trị tuế vì chúng xuất nhập, có Tri khốchúng tăng ghi hết còn, có Thư ký vì chúng giữ gìn Thánh giáo; có Tạng chủ tiếp đón đàn na, có Tri kháchchúng tăngthỉnh mời, có thị giảchư tăngduy trì y bát, có liêu chủ vì chúng mà phụ trách thuốc thang. Có đường chủ vì chúng mà hong phơi; có dục chủ, thủy đầu vì chúng ngăn che ấm lạnh. Có than đầu, lô đầu vì chúng mà xin đồ. Có Hóa chủ làm việc nhọc, có Trang chủ, tri viên, mài mực vì chúng tăng mà dọn dẹp. Có tịnh đầuchư tăng mà cấp hầu, có tịnh nhân để như trợ duyên hành đạo thập phần hoàn bị đồ dùng cho thân, trăm việc thành vạn sự không lo. 

Nhất tâm hành đạo được rãnh nhàn là ngoại vật thế gian tôn quí. Thanh tịnh vô vi, chúng Tăng là trên hết, hồi niệm công sức của nhiều người, há không biết tri ân báo ân sao? Sớm tham, tối vấn không bỏ tấc bóng để mới báo đáp ân Thầy. Tôn ti có chừng mực, cử chỉ đàng hoàng để đền ân thủ tọa, ngoài tuân luật lệnh, trong giữ qui tắc để đền ân Giám Viện. Lục hòa cùng chung ở, như nước với sữa hòa hợp để trả ơn duy na. Vì muốn thành đạo nghiệp nên mới thọ thức ăn này để đền ân điển tọa. An ổn tăng phòng, cất giữ vật rơi để tri ân trị tuế. Vật của Tam Bảo một tơ hào không phạm tới để đáp ân tri khố. Tay không rời bỏ bút, ý chuyên đạo nghiệp là ân thư ký. Cửa sáng, bàn sạch, lời dạy soi tâm là ân tạng chủ; có tài dấu kín, mọi việc đắp bồi để báo ơn tri khách. Ở ắt có thường, gọi ắt đến trước là công ơn thị giả. Một bình một bát, xử chúng như sơn để báo ân liêu chủ. Thà tâm bịnh khổ, cơm thuốc tùy nghi để báo ân đường chủ. Nhẹ nhàng êm thấm, không mê lầm nhân để báo ân dục chủ, vận thủy. Ngậm miệng khoanh tay, nhún mình nhường người để báo ân hỏa đầu quân, lô đầu. Xét đức hạnh mình tự hổ nên cúng để đền ân hóa chủ. Kể công nhiều ít, đo lường của kia từ đâu đem đến để đáp ân trang chủ, tri viên. Gánh nước, tải củi để báo ân tịnh đầu. Tự yêu tiếc phúc, rộng mà dễ tùy, gọn mà dễ làm để báo ân tịnh nhân. Đó là việc bên lề tòng lâm, đạo nghiệp làm mới tồn tại trên cả cơ duyên một đời giữ làm chưa xong. Kẻ sĩ trung lưu nuôi dưỡng Thánh thai, chí như khi chưa ngộ bổn tâm cũng không bỏ bê, là chân tăng bảo, là ruộng phước thế gian. Trong thời kỳ mạt pháp, cập bến lành tức chứng quả nhị nghiêm[17]. Nếu như tòng lâm chẳng duy trì, thời xe pháp không quay, chẳng có trưởng lão để lãnh đạo chúng. Ba nghiệp không điều hòa, 4 oai nghi không nghiêm chỉnh không phải là tài đốc suất chúng của thủ tọa. Lượng bao dung không rộng, tâm yêu thương chúng không dày không xứng để giữ chúng của Giám Viện. Người tu hành bất an, đám bại hoại không mặc tẩn không phải cách điều khiển chúng của duy na. Sáu vị không ngon, ba đức không tinh khiết không phải cách phục vụ chúng của điển tọa. Liêu phòng (nhà) không sửa, đồ đạc không đầy đủ không phải cách làm chúng an ổn của trị tuế. Cất giữ của Tam Bảo, giảm bớt của chúng tăng không phải cách phục vụ chúng của Tri khố. Ván viết không cân, chữ viết dối tháu không phải là vai trò biên chép của Thư ký. Bàn ghế không ngay, làm ồn không ngớt không xứng phần vụ quản thủ của Tạng chủ. Ghét nghèo yêu giàu; trọng tục khinh Tăng không phải vai trò của Tri khách. Lễ phép chẳng kính, tôn ti không theo không xứng làm nhịp cầu giữa chúng của thị giả. Phạt đuổi chẳng nghiêm, giữ gìn chẳng cẩn không phải là cách cư xử của liêu chủ. Không cung cấp giúp đỡ, làm bịnh nhân phiền muộn không phải cách đối đãi của đường chủ. Nước nóng không đầy đủ, lạnh ấm không điều hòa không phải trách nhiệm của dục chủ, vận thủy. Chuẩn bị thiếu sót làm cho động chúng không phải việc làm của thán đầu, lô đầu (lo than củi, đèn dầu). Gặp của bất công, không tận lực hết lòng, không xứng vai trò hóa chủ đem cúng chúng. Đất có lợi, người vô công không phải người thay chúng của trang chủ, tri viên, ma đầu. Cạo đầu không đúng lúc, các duyên không đủ, không phải việc phục vụ chúng của tịnh đầu. Cấm mà không bỏ, ra lệnh không làm theo không phải thuận chúng của tịnh nhơn. Như ở trong tăng chúng mà khinh thầy chê pháp, giữ tánh tùy tiện, không phải để báo ân Thầy giáo thọ. Ngồi nằm sái phép, đi đứng vụt chạc không phải để báo ân Thủ tọa. Khi dễ vương pháp, không đoái hoài đến tòng lâm, không phải để báo ân Giám Viện. Trên dưới bất hòa, tranh cải quyết liệt không phải để báo ân duy na. Ham ăn đồ ngon, chê bai món dỡ không phải để báo ân điển tọa. Tha hồ thọ dụng không nghĩ tới người sau, không phải để báo ân trị tuế. Tham lam lợi dưỡng, không tiếc của Tam bảo không phải để báo ân tri khố. Hoa hòe bút mực, văn chương lã lướt, không phải để báo ân thư ký. Khi dễ kinh luật, xem đọc ngoại điển không phải để báo ân tạng chủ. Liên lạc kết giao với người đời, tiếp xúc người sang chẳng phải để báo ân tri khách. Quên lời mời thỉnh, trọng công truyền lịnh, không phải để đền ân thị giả. Làm hư hại đồ dùng, che dấu tỏ gian không phải để báo ân liêu chủ. Giận nhiều, vui ít không hợp người bịnh không phải để báo ân đường chủ. Gõ nhịp gây ra tiếng, dùng nước không biết tiết kiệm chẳng phải để đền ơn dục chủ, vận thủy. Tự tham lam vơ vét ngăn chặn mọi người không phải để đền đáp hỏa đầu quân, lô đầu. Không nghĩ tới tu hànhan nhiên thọ của cúng không phải vì để báo ân Hóa chủ. Suốt ngày đầy đủ, không dụng tâm tu không phải để báo ân trang chủ, tri viên, ma đầu. Khạc nhổ lên tường, vung vãi xả rác lung tung chẳng phải để báo ân tịnh đầu. Thanh sắc bao biện, sai sử vô chừng chẳng phải chỗ báo ân tịnh nhơn. 

Trở lên chỉ nêu một ít điểm cần yếu, chưa bao hàm hết qui tắc thiền môn, mong bỏ xấu theo tốt để cùng làm cho xong bổn phận người xuất gia, những mong ở hang sư tử trở thành sư tử. Trong rừng chiên đàn thuần toàn loại chiên đàn khiến 500 năm sau được gặp lại tại hội Linh Sơn. Muốn biết Phật pháp hưng suy, quan trọng do tăng đồ, Tăng là phước điền nên phải tôn trọng. Trọng tăng tức là trọng pháp, khinh Tăng là khinh pháp. Trong giữ nghiêm minh, ngoài gìn cẩn mật. Thiết đặt cơm cháo cúng dường, một sáng rỡ ràng, công việc tòng lâm hiển nhiên phải nhận làm nên kính trọng, đãi ngộ đồng đều. Không nên tự tôn tự đại, cũng như cống cao ngã mạn; đem việc riêng đền việc công. Vạn vật vô thường đâu thể bảo đảm được bền lâu! Một mai gặp lại chúng, mặt nào nhìn nhau. Nhân quả không sai sợ khó trốn tránh. Luận Tăng là Phật tử thọ cúng không gì hơn được trời, người thảy đều cung kính

Đức Thế Tôn 2600 năm còn lưu bóng mát che chở đàn con cháu. Trong ánh hào quang là một phần công đức dùng mãi không cùng. Chỉ biết phục vụ chúng mà chẳng sợ lo nghèo. Tăng không phân phàm thánh mà chung hết thảy mười phương. Đã gọi của thường trụ hẳn nên phân đều, đâu có sanh tâm phân biệt, khinh thường thánh tăng lưu lại qua đêm; nếu ở lại 3 hôm có quyền nhận của cúng dường. Tại tăng đường cúng dường bửa ăn sẵn lòng cung cấp. Khách tục còn phải tiếp rước, huống tăng già há chẳng quan tâm? Nếu sẵn sàng với tâm rộng lượng mình tự được phước vô cùng. Chư tăng hòa hợp, trên dưới đồng lòng, thường biết khuyết toàn cùng nhau bao bọc. Việc trong nhà bẩn chớ để bên ngoài hay biết. Tuy nhiên đối với việc không phương hại, chắc ít ai đoái tới, ví như vi trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt của sư tử mà thôi. Không phải thiên ma, ngoại đạo có thể phá hoại được giáo pháp; chỉ có đệ tử của Phật mới làm Phật pháp suy tàn. Nếu muốn đạo pháp mãi lưu truyền, Phật pháp tiếp tục lâu dài, làm phát huy Tông tổ mong lấy văn này làm chuẩn mực.

-Chứng nghĩa ghi, Thiền sư Minh Giáo Cao, Thiên Tôn Tăng nói rằng, giáo hẳn tôn kính tăng, vì sao vậy? Vì Tăng ấy lấy Phật làm tánh, lấy Như Lai làm nhà, lấy pháp làm thân, lấy huệ làm mạng, lấy thiền duyệt làm món ăn. Cho nên không theo họ tục, không kinh doanh như người đời; không tu hình thức, không tham sanh, không sợ tử. Không tiếc gì năm vị, người xuất gia phòng thân có giới, nhiếp tâm có định, biện giải có huệ, lời nói răn dè. Ba nghiệp thanh tịnhcuối cùng thân không nhiễm, lời nói chắc chắn, suy nghĩ cẩn thận đúng, tinh thần sáng suốt, nên suốt ngày không rối loạn, lời nói tỏa huệ vậy. Trọng đức dứt mê lầm là điều hiển nhiên, lấy đây làm nhân tu hành, lấy đây làm quả đạt thành. Có từ có bi, có đại thệ, có đại huệ. Từ ấy là luôn muốn cho mọi vật được an ổn, bi ấy là luôn muốn làm khô cạn mọi sự khổ, thệ ấy là thề cùng với mọi người nhận rõ chân lý, huệ ấy là lấy chánh pháp soi sáng quần sanh. Thần mà thông đó, trời đất không thể yểm che, mật (kín) mà hành đó quỉ thần không thể lường được, đó là quảng diễn giáo pháp vậy. Luận bàn không trở ngại đó là hộ pháp vậy. Phấn đấu không đoái tới thân, hay nhẫn được những cái mà người ta không nhẫn được; hay làm được cái mà người ta không làm được, đó là chánh mạng. Ăn như vậy mà ăn, ăn mà không làm nhục, đó là thiểu dục vậy.

Áo nạp, bát niền mà không bị nghèo. Người vô tranh có thể nhẫn mà không nhẹ thể; người vô oán năng động mà không tổn hại. Lấy thật tướng đãi vật, lấy đức từ tu thân, cho nên ở trong thiên hạ được kính trọng. Người không nói dối nên được tin tưởng; đến như pháp vô ngã nên nhường là thật. Có oai đáng kính, có nghi đáng noi theo. Trời, người vẫn mong nhưng nghiễm nhiên có phước ở đời, hay dẫn dắt cõi tục. Người quên mình dù thác làm cầm thú mà không keo lận. Kẻ đọc tụng dù nóng lạnh nhưng không bỏ bê, lấy pháp xuất xử - làm việc. Đi vào khắp nẻo nhân gian, tới nơi làng xóm; thấy danh như tiếng dội lại, thấy lợi như bụi trần, thấy vật sắc như tia chớp lòe. Đất bằng hợp lối xe đi mà không là hèn mọn, vì đạo mà xử sự. Dù ở nơi núi sâu non thẳm, lấy cỏ làm sáo che thân, ăn cây rừng mà sống an nhiên tự tại không bị lợi danh thu hút, thế quyền khuất phục. Tạ ân vua, các quan hầu không đề cao là người độc lập. Lấy đạo tự thắng, dù hình ảnh đáng thương mà không cô độc, vì cùng ở chung. Lấy pháp làm quyến thuộc, gặp đủ người trong bốn biển mà không bị hổn loạn là do sở học. Ngoài 3 tạng, 12 bộ kinh, sách của bách gia chư tử khác đạo không thể không thông hiểu

Tổ thuật lại pháp ấy hẳn có văn có chương vậy. Người hành trung đạo chẳng không chẳng hữu là học thấu đáo. Lìa niệm tức thanh tịnh hợp nhất chân như, là không chỗ phân biệt, Tăng quí nơi con người là tâm rộng rãi, là đức vẹn đầy vậy. Đó là Đạo lớn, đó là hiền không phải hiền như người đời nói. Đó là Thánh không phải Thánh như thế thường nghĩ. Hiền Thánh xuất thế nổi bật vậy. Tăng như thế há không đáng tôn sao? Ôi thôi, đạo pháp đã tới thời mạt vận, cách Thánh càng xa! Tuy là người xuất gia mưu cầu đạo lại đi tranh danh đoạt lợi cho mình. Thấy Phật pháp suy tàn bèn làm cho pháp môn sáng tỏ, dạy giềng mối đem lại niềm tin cho nhiều người. Thật là lợi lạc cho đàn hậu học để khắc ghi đạo mầu từ đó. Người từng đem tâm KHÔNG cầu pháp, quyết chí theo thầy mà gần nhất là việc hiển danh lập thân, xa là cách phàm chứng thánh, tái lập lại thời tượng pháp, ai bỏ tục làm Tăng? 

Cho nên cần phải tu thân, ít nói, giữ gìn sau như trước. Chuyên lo việc học, cẩn trọng lo hành pháp, tránh ác làm lành. Vâng lời Thầy hết lòng, có giỏi cũng không tự khoe khoang. Việc ác khởi lên phải nhanh chóng trừ dứt, giữ nhân nghĩa đã hành đúng chưa? Nếu nhổ tận gốc nghèo thời vui mà quên lo lắng; thấy liền nghĩ như nhau, đương nhân chẳng nhượng. Danh lợi không làm động được chí nguyện; sanh tử không đủ quấy rối người có tâm ưu tư. Trí có đủ để phá tan mê lầm, lòng từ có thừa để nhiếp hóa người. Lúc khốn phải giữ mình thanh tịnh, khi đạt nên khiêm nhường thiên hạ, làm cho chân phong đang bệ rạc có cơ tái chấn hưng. Đuốc tuệ lu mờ làm cho tiếp tục sáng tỏ, đó gọi là đại trượng phu vậy. Xứng đáng gọi là sứ giả Như Lai thân đâu không an nơi Tăng bảo; diệt gian dối phức tạp mới là yêu mến bậc hiền. Trước ái mộ kẻ thượng hiền, sau thời chìm lặn vào hạng hạ ngu. Bọn người như đây thật đáng thương xót! Đọc lời cảnh sách này tâm nên suy nghĩ: Phật pháp hưng suy do tăng hành xử. Cho nên trọng tăng là trọng pháp, khinh tăng là khinh pháp đó. Muốn ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng. Muốn ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng…

1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11833)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12766)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10350)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10542)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12478)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16430)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11791)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14811)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12034)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12739)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52146)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13970)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17921)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12455)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12657)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54214)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14432)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57980)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14507)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20147)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13793)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15407)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17497)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11936)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13493)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14673)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12495)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12158)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13292)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12546)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13668)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13325)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25603)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12182)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11865)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28352)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38812)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14725)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12703)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant