Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

7. Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11944)
7. Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 8
Tuổi đạo

Chương tám: Tuổi đạo

1.7 Qui tắc lễ hội Vu Lan gồm có 18 điều:

Ta từng nghe giai tiết lễ Vu Lan là dịp đại bố thí rộng khắp, trông mong vào lực lượng đại đàn tràng, thiết cúng vô giá cam lồ pháp vị. Pháp hỷ biến khắp mà thiền duyệt Phật, Tăng gội nhuần cả Thánh phàm. Thực hiện hai việc bố thí vật thực (thức ăn) và pháp thí đời sau được đầy đủ hai môn phước và huệ. Những qui ước chuẩn mực được nêu theo thứ tự sau:

1. Mỗi năm đến Rằm tháng bảy người biết chữ đến liêu Tạng chủ nhận lãnh chú thích, in ấn Kinh Vu Lan. Tạng chủ hỏi danh tánh cho ghi vào sổ. Đến ngày mồng 6 hoặc bắt đầu tu Phật thất, nếu không tổ chức chỉ chú trọng mỗi ngày giảng Kinh Vu Lan một thời cũng được. Dán thông báo tại phòng khách, cổng chùa, giảng đường nêu rõ thời giảng kinh và tên giảng sư vào ngày giờ nào… cho đăng báo, đọc tin trên đài, thí chủ cúng tiền, trai phạn, cúng dường trai tăng, truy tiến hương linh…hết thảy đều nên cho đại chúng biết rõ để tâm mọi người độ lượng (mở rộng) mới hợp lời Phật dạy.

2. Hội cúng này không luận tăng, tục ai cũng tham dự được trong việc niệm Phật nghe kinh, chỉ không cho các ni cô nhỏ tuổi vào đàn, vì sợ mất uy danh đạo tràng.

3. Qui định cũ dùng trước chánh điện thiết lập đàn tràng cúng lễ, phía trên có che tấm bạc (lều) dưới lấy gỗ làm cọc cho chắc chắn để tránh gió mưa. Tùy số người tham dự và đồ cúng nếu đông; còn như ít có thể thiết trí trong chánh điện cũng được.

4. Lời bạch đều do Duy NaTrụ Trì lo chuẩn bị trước đọc nhuần nhuyễn. Đến ngày cúng, bận rộn, thiếu thực tập, khó mà đọc trôi chảy, cho nên đứng nơi lễ đàn chỗ bục cầm giấy đọc rõ ràng khúc chiết. Chỉ Kinh Vu Lan hầu như mọi người đều nên thuộc.

5. Mâm bát cũ có thể dùng được nên dùng. Nếu không chuẩn bị kịp một mâm lớn lấy gỗ làm cũng được, hình thức như tháp hương dưới rộng như chậu, giữa phân làm 4 từng, mỗi từng đặt thức ăn 6 vị, chồng 4 lớp thành 24 vị, đồ ăn đều nấu chín. Mâm lớn rộng 3m bên dưới có giá: lại lấy một bát lớn chứa gạo đổ vào trong để cúng.

6. Phàm cúng lễ chỉ cốt do tâm thành kính, không cần phải ngụy trang dồi dào; cũng không nên tiếc tiền củagiản tiện quá mức. Tùy người nghèo giàu dụng tâm thành mà sắm sửa.

7. Dâng cúng đồ dựa theo kinh Vu Lan nên chọn đủ 5 loại trái cây, thức ăn 100 vị: quả khô 10, canh nóng 10, quả nước 10, dưa đậu 10, bánh bột 10, bánh ngọt 10 loại, dầu ăn 10, đồ xào khô 10, đậu 10 loại, tương 10 thứ.

(Việc sắm sửa trên không tuyệt đối, tùy địa phương mà châm chế cũng được).

Ngoài ra, cúng cơm, nước trà và nói chung là thức ăn chay đều cúng được. Cúng xong dọn đãi cho Phật tử. Cúng dường trai tăng dọn mâm riêng. Đã là việc Phật tùy nghi theo từng trường hợp, nếu người của nhiều thời sắm đủ trăm vị, cúng 1000 vị tăng, tụng kinh, sám pháp đều làm cho thêm phần lợi ích. Như người nghèo ít của chỉ cần 3 loại quả, 6 vị thức ăn, thậm chí cúng 10 vị tăng cũng đủ, gọi là phú la thiên hạ kỳ trân (những vật trân quí bày trong thiên hạ). Nghèo mà tận lực, cốt ở chỗ tấm lòng thành mà thôi.

8. Hội cúng Vu Lan giống như cúng Thủy Lục, đàn nội cúng Phật, đàn ngoài nên tụng kinh Hoa Ngiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, quyển 24, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 12 bộ, Kinh Địa Tạng 12 bộ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật 12 bộ, Kinh Kim Cang 24 bộ, Kinh Dược Sư 24 bộ, Kinh Kim Quang Minh 12 bộ, Kinh A Di Đà 108 lần, Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni 24 bộ, Kinh Vu Lan Bồn 7 ngày cũng được.

9. Hội Vu Lan tuy cúng tiến cha mẹ tôn thân, nhưng gồm độ luôn 6 cõi phàm hay 6 đạo luân hồi chuyên chú tâm tới các quyến thuộc. Phàm phu không biết, Phật dạy phóng sanh để trợ lực công đức, nên khuyên rộng mọi người tới ngày hoàn mãn mua chim cá để thả, cần thiết không thể bỏ qua.

10. Nếu có lễ sám ngày 13 tháng 7 bắt đầu lạy, tắm rửa sạch sẽ thanh tịnh. Xem thêm qui tắc tụng niệmnói trước, sau khi kiết đàn nên giữ gìn trang nghiêm, đừng để người, súc vật, cũng như không có vật bất tịnh rơi vào. Giả sử có rơi vào, y theo pháp qui tội rất nặng.

11. Đàn sám tăng chúng không được lộn xộn, như đàn Tỳ kheo chỉ nên toàn Tỳ kheo, nếu Ni chúng kết đàn phải dùng đàn riêng cho ni chúng. Nam chúng tại gia theo chúng Tỳ kheo, nữ theo Tỳ kheo ni, không xen tạp. Nếu Ni không thể làm chủ đàn nên mời một vài vị tôn túc trưởng lão cao đức giúp hộ. Bên ngoài đàn, Chủ sám dạy không được lập đàn cúng hương đèn, không được lộn xộn cũng thế. Tấn đàn niệm hương lễ bái, cũng vào đàn nội niệm hương lễ bái như vậy.

12. Trong lúc lạy sám cần đi vệ sinh, vào restroom không được mang y sạch vào. Trước tiên phải cởi y sạch, giày sạch để chỗ sạch rồi mới mặc áo, mang giày vào nhà cầu. Việc xong tẩy tịnh, rửa tay sạch sẽ, cởi áo giày ra rồi mặc y sạch, giày sạch lại phòng rửa mặt, lau mặt, súc miệng rồi nhập đàn

13. Lúc lạy sám không được tiếp xúc người ngoài, không được nói chuyện riêng với họ, cũng không được xem các sách kinh khác. 

14. Cúng ngọ dùng thức ăn đã nấu chín, cúng xong liền thâu dọn để trên bàn đậy lại; cúng Phật chỉ dùng hương hoa, nước trong là đủ.

15. Cúng trai Vu Lan, Phật dạy ở vào dịp lễ giải hạ, có nghĩa là chư Tăng an cư 9 tuần, tu tập tinh chuyên, giới đức thanh tịnh, có thể cứu độ ngạ quỉ (quỉ đói). Phàm vị thầy sám đều phải giữ thanh tịnh không ăn sau giờ ngọ, cũng giống tu Bát Quan Trai. Không được kéo dài giờ giấc làm hỏng giờ thọ trai (đúng ngọ).

16. Lễ sám tới canh năm thức dậy rửa mặt, dùng trà xong nhập đàn là thời thứ nhất, mặt trời lên dùng điểm tâm xong nghe hiệu lệnh vào đàn là thời thứ hai, lễ lạy chừng hết một cây hương nghỉ giải lao, sau khi giải lao độ 15 phút trở vào đàn là thời thứ ba lễ tới 11 giờ. Dùng ngọ trai xong đi kinh hành, giải lao, chỉ tịnh. Lúc 14 giờ nhập đàn là thời thứ tư, lễ độ 1 giờ và nghỉ giải lao; từ 4 giờ15 nhập đàn là thời thứ năm tới 5,30 giờ nghỉ. Buổi tối lúc 8,30 giờ nhập đàn là thời thứ sáu lễ sám. Sau khi ra đàn là giờ chỉ tịnh nghỉ ngơi.

17. Sau khi ra đàn tọa hương đều phải chuyên tu thiền quán không được phóng túng hoặc hôn trầm. Giả sử không ngồi tọa hương được, có thể niệm thầm kinh chú hoặc niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát cũng được, không nên bàn nói lớn tiếng làm động người khác hoặc cười nói, v.v…

18. Mỗi khi nghe chuông hiệu lệnh liền đi tiểu giải, rửa mặt. Nghe một hồi 3 tiếng chuông dài liền theo thứ tự mà đứng, đừng đứng trước sau không hàng lối.

19. Trong quá đường thiết một bàn dùng hương đèn, trên bàn hiến cúng Vu Lan Bồn, khải giáo Đại sĩ, đại hiếu Đại Mục Kiền Liên tôn giả liên tọa. Trên đó chỉ cần người hầu hương đèn. Giả sử có việc cần cấp ngưng lại có thể theo việc mà nói thẳng không được không nói nguyên do. Nói lời khiên cưỡng khác, thảng hoặc có kẻ uống rượu say tới dạo chơi, Tri khách nên nói khéo làm cho đương sự đứng xa nhìn, không được gây rối.

20. Lễ sám đến ngày Rằm, đại chúng tắm rửa, thay quần áo sẵn sàng nghi cúng ngọ, xong thọ trai. Xem Quy tắc nghi ở trước có nói rõ. Nếu khônglễ sám Vu Lan, có thể sám pháp Đại Bi hoặc sám Tịnh Độ thay cũng được.

Ngày…tháng…năm…

Trụ trì… ký tên.

-Chứng nghĩa ghi rằng, chú giải kinh Vu Lan, trong tạng Kinh chỉ thấy đời Đường Ngài Khuê Phong Tông Mật pháp sư chú sớ 1 quyển. Sau đời Tống dựa theo sách ấy cho ra đời sách Hiếu Xung sao 2 quyển. Cuối đời Minh Ngẫu Ích đại sư của Tông Thiên Thai viết Tân sớ 1 quyển, Luật tôngpháp sư Ngọc Luật viết Hiệp Thích 1 quyển. Bản còn lưu hành ở phòng Kinh sách Chiêu Khánh, song Qui Tắc nghi cúng lâu không thấy lưu hành. Người đời lầm cho rằng thí quỉ thần là cúng chay lễ Vu Lan, đây là sự lầm lẫn. Sách Vân Thê Chánh Ngoa tập ghi rằng, Vu Lan Bồn duyên khởi do Ngài Mục Kiền Liên, cho rằng ngày Rằm tháng bảy chư tăng giải hạ làm lễ Tự tứ (chỉ lỗi và nhận lỗi) sau 3 tháng tu học đạt được nhiều đạo quả. Ngày này nên cúng dường được phước đức tăng gấp trăm, chứ không phải cúng thí cho cô hồn (quỉ thần) ăn. Cúng thí thực duyên khởi do Ngài A Nan không hạn ngày rằm tháng bảy, sắm sửa đồ vật tại Ma Kiệt Đà cũng không phải hội Vu Lan. Bởi vì theo một nguyên tắc, trên cúng Thánh Hiền, một mặt khác dưới giúp loài quỉ đói do thương kính là nguyên nhân khác nhau, chớ có lẫn lộn. Ngày nay Thanh Quy có cúng thí thực Trung Nguyên nhằm ngày cúng lễ Vu Lan, dâng cúng Tam Bảo, ban đêm thí hộc thức ăn, giúp đều cho quỉ thần, đây là một việc lưỡng lợi nên làm.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11596)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12535)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17941)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11699)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15305)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14296)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15278)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11969)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13127)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16499)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19585)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11807)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12727)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14470)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12576)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15620)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13571)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12854)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9823)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11123)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12136)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13003)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11413)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14210)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant