Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008
Tuổi đạo
Chương tám: Tuổi đạo
Ngày 16 tháng 7 âm lịch là ngày giải hạ. Thông báo dán tại phòng khách ghi rằng: ngày mai là lễ Tự tứ: Ngày giải hạ (Tự tứ) nghi thức giống như kiết hạ. Trụ trì định giờ giấc, tới giờ báo hiệu lệnh ba hồi 3 tiếng chuông, đại chúng vân tập vào chánh điện, đốt nhang, Trụ trì niệm hương, Duy Na cử tán: Vu Lan chánh giáo… xong, đứng giữa niệm hương, trải tọa cụ lạy Phật 3 lạy rồi quỳ gối chấp tay bạch rằng: Nam mô Thích Ca Như Lai (2 lần) mãn hạ tự tứ (đại chúng hòa theo). Duy Na đọc tiếp: mãn hạ Tự Tứ là pháp quan trọng của Phật môn, sám trừ tội khiên, chừa bỏ lỗi lầm là cách tốt đẹp cho tăng hành, nuôi dưỡng thiện nhân vun bồi quả chứng. Nếu không nương thuyền giới định không sao đến Niết Bàn được. Hôm nay nhân ngày 16 tháng 7 đương lúc chúng tăng giải chế, mãn kỳ kiết hạ, chúng tăng vân tập Phật điện trì tụng kinh chú giải kỳ kiết giới. Từ đó đến nay có ai phạm 4 giới trọng trong 10 điều ác, phải tự thú tội sám hối; khởi 3 độc (tham-sân-si) phạm 7 già tội[2] tùy theo đó mà nói ra. Hoặc thấy tội, nghe tội hoặc nghi tội mỗi mỗi đều phải sám hối. Hoặc thân phạm, miệng phạm, ý phạm chồng chất phải nên tỏ bày sám trừ căn trần trói buộc, thanh sắc dẫn lôi liên miên chứa nhóm các tội lỗi ngăn chướng bản tâm. Nếu không tỏ bày sám hối do đâu tâm sạch như băng tuyết được? Pháp sám hối đặc biệt rửa sạch hết tội của ta - người, sám tức là tự ăn năn lỗi trước; hối là lương tâm ray rứt không dám phạm ở tương lai. Nên bày tỏ rằng: con đã phạm tội, nguyện cầu xin sám hối để được tiêu sạch; tội chưa phạm không dám phạm. Vì vậy, nay là ngày giải hạ; tự thú nhận tội.
Duyệt chúng gõ khánh, người bạch Tự tứ thưa rằng:
- Bạch đại đức một lòng thương xót, chúng tăng ngày nay Tự tứ, con Tỳ kheo… cũng Tự tứ. Nếu thấy, nghe, nghi có tội, xin Đại Đức thương xót chỉ bảo, nếu con thấy có tội, sẽ y như pháp mà sám hối (3 lần). Mỗi người lần lượt ra trước bạch như thế cho đến người cuối cùng. Xong rồi, đại chúng cùng tụng bài kệ sám hối:
Xưa con đã tạo các ác nghiệp
Đều do vô thỉ tham sân si
Sanh khởi đều từ thân miệng ý
Hết thảy tội con xin sám hối.
Án tam đà ra già đà ta bà ha (3 lần).
Tụng Bát Nhã, niệm Phật, sám nguyện:
Tự tứ giải hạ
Phật quả viên thành
Nghiệp chướng sạch thanh
Tánh giác lắng trong
Trí tuệ rạng soi
Pháp giới nhuần ân.
Nam mô cầu sám hối Bồ Tát Ma ha tát (3 lần).
Tiếp tụng hồi hướng, phục nguyện và 3 tự quy y.
* Nếu không tổ chức cúng lễ Vu Lan thắng hội, ngày giải hạ Tứ tứ là Rằm thay vì ngày 16.
- Chứng nghĩa ghi rằng, giải hạ tự tứ, sau khi đã kiết giới an cư để ngăn các Tỳ kheo thời kỳ hạ không được đi khất thực gọi là nghỉ hạ. Sáng hôm mãn kỳ kiết giới, mỗi người biết có lỗi, chính tự mình bày tỏ, tự không biết lỗi xin nhờ chư tăng nêu lỗi, nên gọi là Tự tứ.
Có người hỏi Ngài Liên Trì rằng hứa cho Tăng Tự tứ nghĩa là gì?
- Người có lỗi như bịnh nhân mắc bệnh, nêu lỗi ra như hương y chữa khỏi. Dấu bịnh là thầy thuốc ác, là kẻ đại ngu si. Thế thì biết có lỗi nêu lên là làm đúng. Lại cũng hỏi rằng, có lỗi như tự mình nêu lên càng tốt, hoặc người khác nêu ra mà không sợ kẻ ấy chối cải sao?
- Đáp: Luật ghi rõ tăng có tội, vị tăng bên cạnh bạch Phật. Phật triệu tập chúng tăng lại mỗi mỗi khiển trách, nhân đó Phật chế luật; tòng lâm nay đều y cứ theo đây áp dụng vậy.
Điều này, tuân lời Phật dạy không phải xuất phát do ý riêng làm sao có sự tranh cải.
Vã lại, pháp thế gian còn cho rằng, vua tranh với thần, cha tranh với con, kẻ sĩ tranh bằng hữu. Cho nên nói rằng, minh quân thưởng thần dám can ngăn thẳng; Thánh chúa lập đài chỉ trích. Huống là tăng sĩ tu hạnh xuất thế há lại không có bằng hữu giúp chỉ lỗi hay sao? Nếu trực ngôn thời chỉ trích trực tiếp, người nịnh hót cố ngăn che chống trái, làm thất đức, mất sự nghiệp, gây tổn thất chẳng phải nhỏ vậy.
Nhân đây lại có bài tụng rằng:
Trước chỉ lỗi hội Vu Lan
Nay Tự tứ lòng càng nhắc răn
Rao lỗi người giận khởi lên
Luật lệ sờ sờ mắt híp chẳng nhìn.
Hằng nào chánh pháp không bị ma quân tiêu diệt tan tành chứ! Ngài Vân Thê pháp chủ đến đổi phải than thở rằng, một phép thương tâm ta, một tắc vỗ về chí ta, anh há chẳng thấy yêu kính lễ nên còn dê; Tuyên Ni từng nói được ban tòa ngồi gỗ. Sách Thiền Tông Bí yếu ghi rằng, xưa tôn giả Xà Dạ Đa tới thành La Duyệt Kỳ tuyên dương đốn giáo, nghĩa là đi suốt ngày đấu lý bẻ giẹp hết chúng nhơn. Thế nhơn giả đã đạt được không phiền não nội tâm chưa?
- Đáp: Ta nhớ lại bảy kiếp trước ta sanh ở nước Thường An Lạc, thầy ta là Trí Giả Nguyệt Tịnh thọ ký cho ta chẳng bao lâu sau được chứng quả Tư Đà Hàm. Lúc bấy giờ có Bồ Tát Đại Quang Minh ra đời, ta vì già cả phải chống gậy đến lễ bái. Sư gặp quát lớn hỏi ta:
- Đồng tử khinh cha, một kẻ hèn vậy sao?
Lúc ấy ta tự cho không có lỗi, nên thỉnh thầy chỉ giáo.
Thầy nói: ông lễ Bồ Tát Đại Quang Minh để gậy dựa vách vẽ hình diện Phật để thấy lỗi này. Ta liền mất hết 2 quả vị và từ đó tự trách sám hối lầm lỗi. Nghe những lời ác như vang theo gió, huống chi được uống vị cam lồ cao thượng mà còn sanh lòng sân hận sao? Ôi! Đây đáng gọi là gương sáng của phép Tự tứ vậy!