Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16. Tháng giêng: công việc mỗi tháng cần nên biết

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12999)
16. Tháng giêng: công việc mỗi tháng cần nên biết

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 8
Tuổi đạo

Chương tám: Tuổi đạo

1.16 Tháng giêng: công việc mỗi tháng cần nên biết

Tháng giêng có Tết nguyên đán là ngày lễ cổ truyền của các dân tộc Á Đông. Vì vậy, tòng lâm phải lo sửa soạn dọn dẹp, lau quét trong ngoài, chưng bông, trái mới, sắm sửa bánh mứt, thức ăn cúng Tổ. Cúng chư hương linh… lễ gồm có đón giao thừa, chúc tết, phát lộc Xuân, lễ vía Phật Di Lặc, lễ thù ân, lễ mừng khánh tuế Phương Trượng v.v… Hòa Thượng ban lời khuyến tấn đại chúng, phát lộc đầu năm, chúng đảnh lễ Hòa Thượng.

Đặc biệt, trong ngày Mồng Một cử người thỉnh đại hồng chung suốt ngày và khách thập phương cũng tới chùa lễ bái, cầu nguyện, ngoạn cảnh, thăm chư tăng, dùng trà, chuyện vãn…

Chứng nghĩa ghi rằng, cúng chư thánh thế gian như:

Chánh giác thế gian: chư Phật, Bồ Tát, 4 thánh

Hữu tình thế gian: thiên, nhơn, a tu la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, sáu cõi phàm.

Khí thế gian: y báo 3 cõi như đất, nước, gió, lửa, các loài thần v.v… ngày nay cúng 4 thánh như Phật Di Đà, Di Lặc, Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Thế Chí, Chuẩn Đề, Địa Tạng và Tổ Đạt Ma, Bách Trượng, Thiên Thai, Hiền Thủ, Nam Sơn, Viễn Công, cho đến trai đường, ruộng vườn, đất đai… đều có nói tới nơi quyển 8 ở trước, nên ở đây không ghi nữa. Phàm trên 4 Thánh không cúng giấy vàng mã, nếu cúng là phạm tội bất kính. Lục phàm có thể cúng được (nhưng nay ít người dùng). Ngoài ra các thần khác đều dùng vàng mã. Lưu ý: tốt nhất cúng bánh trái, thức ăn mà không có niệm tụng gì, đến như cúng cha mẹ, sư trưởng, quỉ thần nên tụng niệm cầu nguyện. Xin đừng có lạm dụng vậy. 

Phụ: các bài tán cần dùng:

Trừ các nghi cúng thông thường ra cũng có thể tùy nghi xử dụng.

Thiền đường:

Đại Thừa rốt nghĩa thể toàn không 

Thấy nghe, giác biết dường hư không 

Chỉ dấu bày kim dung

Tinh tấn cần gia công

Buông tay thoát lao lung

Nam mô Tỳ lô giá na Phật

Điện Quán Âm:

Đức giáo chủ viên thông

Thường ở chốn Lạc già

 Tùy duyên ứng hiện không sai

Nhà lửa cứu tà ma

Nhành dương rảy rưới

Một giọt biến sơn hà

Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.

Lầu kinh các:

Pháp hội chư Phật ứng khắp đại thiên

Từ bi thương cảm cứu nhân thiên

Nghĩa thánh giáo thâm uyên

Kinh, luật, luận rộng truyền

Hành, hiểu chứng kim tiên

Thuyền duyệt tạng Bồ Tát ma ha tát.

Điện Hoa Nghiêm:

Pháp hội hoa nghiêm

Xá na như lai

Tạng hải liên hoa tọa hoa đài

Chư Phật hoan hỷ tuyệt vời

Vạn tượng thông suốt

 U ám mở khai hợp thời

Hoa Nghiêm hải hội Phật Bồ Tát.

Tại giới đàn:

Ngàn hoa trên đài Xá Na từ tôn

Lui về bản xứ cứu hàm linh

Tâm địa giới làm nhân

Ngàn ức Phật thân

Khúc hát hòa nắng xuân

Nam mô Lô Xá Na Phật. 

Điện Dược Sư

Phật Dược Sư bậc y vương

Thân đến thủy nguyệt đàn trường

Lòng thương cứu khổ giáng cát tường

Khỏi nạn trừ tai chướng

Con xin sám hối ba nghiệp tội

Nguyện được phước thọ mãi miên trường

Sao cao chiếu diệu gội nhuần ân quang

Mọi điều như ý an khang

Tiêu tai Diên Thọ Dược Sư Phật.

Đèn tháp Dược Sư

Tán lễ Mãn Nguyệt thế giới Đông Phương

Lưu ly cảnh diệu phi thường 

Sáng rực rỡ huy hoàng

Nhân trong thệ nguyện rõ ràng

Phật Dược Sư phóng tỏa từ quang

Diệt sạch hết chúng sanh tai chướng

Ban rải sự cát tường

Hiện giờ đại chúng tán dương

Phước thọ thật vô lường

Hiện thời đại chúng xưng dương

Phước thọ khó nghĩ lường

Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Lầu Đại Bi

Trang nghiêm cứu giúp đời

Cao vời tâm đại bi

Mắt, tay hiện phép thông hành thí 

Diễn pháp Đà la ni

Chư Phật đồng hoan hỷ

Công đức khó nghĩ nghì.

Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Điện La Hán Đông:

Chín trời (cõi) phiền dứt chứng quả vô sanh

Cúng dường trời người quả đạt thành

Tích phước ban rãi điều lành

Hổ phục, rồng hoan nghinh

Muôn đời mãi thơm danh

A La Hán tôn giả.

Điện La Hán Tây

Phạm hạnh đầy đủ ngộ lý chơn không 

Thiền định du hí phép thần thông

Chấn hưng nền nếp Phật gia phong

Người tôn sùng lợi lạc mãi không cùng

A La Hán tôn giả.

Điện thờ ngài Chí Công

Điểu sào xưa sử tích 

Lương Võ Đế trọng sư

Từng ở Bửu Hoa tướng uy nghi

Tên núi lấy hiệu Bảo Công ghi

Truyền pháp giáo hóa khó nghĩ nghì

Vạn đời sám pháp mãi còn ghi.

Độ nhơn sư Bồ Tát.

Tổ sư Phổ Am

Phổ Am linh ứng

Đại đức danh xưng

Trời rồng tám bộ tùy thân

Đất nước thảy hòa bình

Pháp mầu ban rãi khắp

Quả lành mãi đẹp xinh

Độ nhơn sư Bồ Tát. 

Trước bàn xuất sanh

Chim đại bàng cánh vàng

Quỉ dữ mẹ và con 

Bỏ ác quy Thế Tôn

Trước thọ giới giữ tâm

Thệ nguyện rộng bền kiên

Hướng về đồng rộng vô biên

Sanh thiên giới Bồ tát ma ha tát.

Tại kho lẫm

Nhân duyên tấn đạo ngũ cốc trước tiên

(Có thực mới vực được đạo)

Đàn na không xan tiếc trừ dứt tham

Kính tin gieo phước điền

Bố thí vững an nhiên

Cảm ứng đến long thiên

Hộ pháp tạng Bồ Tát ma ha tát.

Điện Quan Thánh

Trung quân báo quốc ân

Dũng mãnh trượng phu thần

Ủng hộ Phật pháp diệt dần tà ma

Giữ gìn an ổn tăng già

Tiến tu đạo nghiệp lợi tha

Muôn đời ghi nhớ tán ca bảng vàng

Hộ Pháp Tạng Bồ Tát

Điện Tam Quan

Ba quan đại đế công đức khó lường

Đài mây đỉnh thượng phóng luồng hào quang

 Ân phước ban cát tường

Hài tội, trừ tai ương

Cởi trói giữ an khương

Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.

Điện thiên vương:

Trì quốc, Tăng trưởng, Quảng Mục, Đa văn

(Bốn vị thiên vương cai quản 4 châu)

khuôn phò đất nước mãi hằng an ninh

rừng giáo pháp tạo kim lăng

Ủng hộ mối giềng tăng

Giúp đạo luôn thường hằng.

Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.

Thần giữ sơn môn

Sanh ra trong cõi nhân hoàn

Chủ gìn cửa nẽo đứng hàng thần tôn

Hộ trì tăng chúng an ninh

Nhờ ân Phật đại uy linh

Trừ tai, diệt họa thanh bình an vui.

Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.

Những người ở chungcha mẹ sư trưởng hiện tiền

Tòng lâm đất báu, sống chung lục hòa

Niệm ân cha mẹ cùng là ân sư

Nương nhờ đức Phật đại từ

Cần chuyên nỗ lực công phu

Hưởng pháp bình đẳng ví như dự phần

Sanh thiên giới Bồ Tát

Thả vật phóng sanh

Sanh thai, đẻ trứng, ẩm thấp, hóa sanh

Nhiều kiếp trôi nổi lộn quanh luân trầm

Quy y Tam Bảo phát bồ đề tâm

Lưới, lồng tù hãm những mong thoát lìa

Nhởn nhơ dưới nước, bay bổng trên không 

Dứt thọ báo sanh đao lợi thiên cung

Sanh thiên giới Bồ Tát ma ha tát.

 Chứng nghĩa ghi rằng, các nhà tín thí cúng dường nhiều ít không giống nhau, song điều cần yếu tâm thành kính mới là chính. Ở tòng lâm ngày nay, tuy dựa sự cúng dường nhưng phần nhiều là rau cải trồng, hoặc dùng đồ đông lạnh, không phải thức ăn liền. Chỉ biết người, việc mà không nghĩ tới vật cúng do tâm sanh. Lễ nghi đơn giản nên người nhận cần phải biết. Tâm đã không thành thời dâng cúng làm gì cho thêm vất vả. Cúng dường như vậy là để cho ai kia khi dễ, là trực tiếp đem lễ làm trò đùa vậy. Nên phải biết lỗi lầm này rất là tai hại, mong khắp những ai giới đầu tròn cùng tránh theo cách này. 

Tháng 2 

Ngày mồng một đóng cửa sơn môn mùa đông. Mồng 8 lễ vía Phật xuất gia, Rằm tháng 2 lễ vía đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn. Tháng 2 nhằm giữa mùa xuân gọi là trọng xuân. Ngày 19 vía đức Quán Thế Âm Bồ Tát, ngày 21 vía Bồ Tát Phổ Hiền. Tùy nghi cúng lễ theo nghi thông thường.

Tháng 3

Tháng 3 gọi là quí xuân, tháng cuối của mùa xuân, cũng gọi là mạt xuân, vãng xuân, diểu xuân (cuối xuân).

Ngày 16 vía Bồ Tát Chuẩn Đề.

Tháng 4

Vào tháng 4 thời tiết nắng ấm, vì bắt đầu vào hạ, khí hậu mát mẻ, cây cỏ xinh tươi tiếp theo mấy tháng mùa xuân. Mồng 4 lễ vía Bồ Tát Văn Thù. Mồng 8 đến rằm lễ vía đức Phật Thích Ca giáng sanh. Từ xưa, lễ cử hành mùng 8 tháng 4, nhưng từ năm 1950 đến nay được giới Phật giáo thừa nhận chọn ngày Rằm tháng 4 lễ Phật Đản (người dịch chú). Rằm tháng 4 cũng là lễ khánh đản Bồ Tát Dược Vương. Tháng 4 gọi là mạnh hạ, sơ hạ, thanh hòa, cũng gọi quỳ nguyệt: vì thứ hoa quỳ nở về mùa hè, hoa vàng nhạt có 5 cánh ở giữa màu tím.

Tháng 5

Tiết Đoan Ngọ cũng gọi là Đoan Dương, nhân gian tưởng niệm ngày mùng 5 tháng 5. người Hoa hay người miền Nam Việt Nam thường lên rừng tìm các thứ cây, lá thuốc hái đem về chặt vụn, phơi khô cho vô bao để dành nấu nước uống (trị bịnh?) (người dịch chú)

- Chứng nghĩa ghi rằng, trong tông môn không một việc gì, không một tiết nào mà chẳng lấy việc thuyết pháp làm đề tài cống hiến mọi người. Nay lục lại lời pháp ngữ tiết Đoan Ngọ làm một tắc để nêu ra những câu khác, như Thiền sư Trạm Nhiên đăng đường nói rằng:

Mồng 5 tháng 5 tiết đoan ngọ

Lưỡi trắng sạch, dấu đào, miệng đỏ

Trị cọp beo lui mãn đầu rủ

Trỉ vàng, xương bồ, hòa rượu hủ

Say mềm chẵng biết tháng ngày qua

Ngàn tinh trăm quái đều đuổi sạch 

Ai hay ma tới hay Phật đà

Quyết lòng nắm chốt cổng thiền na.

Như thế đại chúng làm sao mà không thấy được đạo. Bảo vệ sanh mạng phải nên sát, sát hết mới an ổn. Nên biết rõ đạo lý sát đưa tới giờ tốt này, lấy lá ngãi làm cờ, lấy xương bồ làm kiếm, lấy tâm làm bén nhọn. Đãm tiết anh hùng không quản ngại đắc thất, thánh phàm, chân vọng; cho chí tham sân si, ái, hết thảy giặc phiền não để vung lên một lưỡi dao hai nhát đạt thẳng tới thân tịnh. Rưới rưới đỏ, viên đà đà, trôi trôi chảy tạo đại trượng phu thế gian, xuất thế gian. Anh em còn có nghĩa gì? đạt được sự thật gì? Địa gì? Nếu không đạt địa gì, sơn tăng có cái bùa hộ thân đem vứt đi. Niêm Trụ trượng nói rằng, xem rõ thái thượng lão quân, gấp gấp như sắc lệnh. Tháng 5 làm ngọ cúng dê đực cũng gọi là sanh tân hoặc tiết trung thiên hay tu nguyệt còn gọi là bồ nguyệt, ngãi nguyệt, lưu nguyệt v.v…

Tháng 6

Tháng 6 gọi là quí hạ - cuối mùa hạ - khí trời oi bức, cũng gọi là lâm chung, thả nguyệt, hà nguyệt v.v… Ngày 19 tháng 6 lễ vía Quán Thế Âm Bồ Tát.

Tháng 7

Tháng 7 gọi là mạnh thu - đầu mùa thu - có nhiều lễ tiết quan trọng. Tháng của chay tịnh đối với người muốn ăn chay báo hiếu chọn thời gian này.

Ngày 13 vía đức Bồ Tát Đại Thế Chí

Ngày 15 lễ Vu Lan Thắng Hội hay Vu Lan Bồn

Ngày 16 lễ Tự Tứ hay giải hạ của Tăng Ni các tòng lâm, tự viện tại nhiều nơi.

Ngày lễ Vu Lan được xem là đại lễ - ngày báo hiếu nên rất quan trọng đối với hầu hết các nước Á Đông. Đặc biệt dịp lễ này cúng cho người quá cốđồng thời cũng cúng cho người còn sống, cầu an lạc và sống thọ; cũng như cầu siêu độ.

Ngày 24 Lễ kỷ niệm Bồ Tát Long Thọ

Ngày 30 Lễ vía Bồ Tát Địa Tạng.

Có những danh từ gọi tháng 7 như: mạnh thu, di tắc, tương nguyệt, xảo nguyệt v.v…

Tháng 8

Tháng 8 gọi là trọng thu - giữa mùa thu - thời tiết mát dịu êm đềm, lá vàng rơi rụng lác đác đầy sân vườn, đường sá. Cảnh trí tiêu sơ, buồn ảm đạm, cũng gọi là thanh thu, tráng nguyệt, quế nguyệt v.v…

Ngày 15 lễ trung thu hay còn gọi là tết nhi đồng.

Ngày 22 lễ vía cổ Phật Nhiên Đăng.

Tháng 9

Tháng 9 gọi là Trùng dương, quí thu, mộ thu, thâm thu, diểu thu, nguyên nguyệt, cúc nguyệt v.v…

Ngày 19 Lễ vía Quán Âm Bồ Tát 

Ngày 30 Lễ vía Đức Phật Dược Sư.

Các đại tòng lâm, tu viện thướng có tự điền làm hoa lợi để nuôi tăng chúng, điều hành Phật sự. Đất canh tác cho tá điền thuê mướn, chùa chỉ chia được 1/3 hoa lợi mà thôi. Dù vậy, tiết thu là mùa lúa chín chùa phải cử người tới ruộng lúa trông coi thợ gặt, hầu tránh sự thất thoát, lạm dụng của Tam Bảo. Thu hoạch lúa xong đem về trình Phương Trượng duyệt qua rồi nhập vào kho.

Tháng 10

Tháng 10 gọi là mạnh đông - đầu mùa đông - mưa gió, bão lụt…thường xảy ra vào mùa này.

Rằm tháng mười, dân gian gọi là lễ hạ nguơn, nên có câu rằng: rằm tháng mười, mười người mười quảy, rằm tháng 7 kẻ quảy người không, rằm tháng giêng, ai siêng thì quảy.

Tháng 11

Tiết đông chí, còn gọi là trọng đông - giữa mùa đông - hay còn gọi hoàng chung, cô nguyệt, chí nguyệt v.v… ngày 17 kỷ niệm lễ vía đức Phật A Di Đà. Người tu pháp môn Tịnh Độ thường tổ chức mừng lễ vía Ngài rất long trọng, có nơi tổ chức tu Phật thất, có nơi thiết đặt lễ đài trang nghiêm với cảnh giới Cực Lạc như Kinh A Di Đà diễn tả. Phóng sanh, phóng đăng, bố thí, chẩn tế cô hồn, bạt độ các âm linh v.v…

Tháng 12

Tháng 12 gọi là quí đông … cuối mùa đông… tiết trời khá lạnh.

Ngày mùng 8 lễ vía đức Phật Thích Ca thành đạo.

Ngày 29 lễ vía Bồ Tát Hoa nghiêm.

Từ 23 đến ngày 30 là thời điểm rất bận rộn, lo quét tước, sơn sửa lại, dọn dẹp sạch sẽ trong ngoài để đón giao thừa. Lễ đón giao thừa vào đêm 29 tháng 12 (nếu tháng thiếu) hoặc 30 tháng 12. Ngày cuối năm rất quan trọng, có những khóa lễ như: cúng ngọ, cúng chư hương linh thờ tại chùa, tối có lễ sám hối hồng danh chư Phật, khuya có lễ đón tân niên, lễ cầu nguyện quốc gia thái bình, nhân dân an cư lạc nghiệp, chúc Tết, lộc Xuân v.v…

- Chứng nghĩa ghi rằng: cổ nhân cho đêm trừ tịch là tử nhựt, vì một năm đã hết, cũng như một đời chấm dứt. Thiền Sư Hoàng Bá nói rằng, nếu những việc gì dự định trước làm chưa xong, đến ngày 30 tháng chạp cũng đủ làm cho ta rối lên. Song ngày Mồng Một tháng giêng theo lẽ là tiếp nối đêm trừ tịch (ngày 30) không phải là mới. Trước hết, phải biết người, biết việc, thời liền hội lý với tử nhựt không phải là mới mà là thấm thoát, dằng dặc rộn dâng. Không biết tuổi thiếu niên rồi tráng niên, tráng rồi lão, lão rồi chết. Huống chi còn có những sự bất cập từ tráng tới lão, há chẳng buồn thay! Cho nên sắp đến đêm trừ tịch là báo hiệu vô thường để luôn luôn cảnh giác, tự nguyện tự hứa là không thể dựa cũ mà buông thỏng cho qua đi. Làm một việc nào cho thấu triệt (xong) việc đó, không thể lơ là xem rồi bỏ qua được. Không phải giải được thông một ít kinh luận mà cho là hoàn bị đâu; không phải ngồi tọa hương một vài lần không động không dao mà cho là triệt ngộ được. Không phải giải được vài công án của cổ đức về việc vấn đáp, hiểu ít câu thoại đầu, niêm cổ mà tự cho là thấu triệt. Không phải đối đáp đôi câu thiền thoại hời hợt mà cho là hiểu hết được. Cổ nhơn gọi việc này là động nhiên như đáy thùng lủng, hoát nhiên như cơn mộng tĩnh lại, không còn một tơ tóc nào còn có chỗ nghi mới có phần ứng hợp. Như có một vị tăng thường ở miếu thần, ngủ trong lò đốt giấy, có một vị tăng khác ẩn núp trong lò giấy đợi người kia tới ở, lại ngăn đuổi không cho ở lại. Liền hỏi rằng: ý Tổ sư từ Tây lại là gì?

- Đáp: trước thần là bàn rượu.

Lại có vị tăng nhơn tự cho là đắc ngộ, cùng đi với sa di đến chỗ mé nước bỗng té ngã dưới nước, gấp hỏi Ngưu Đầu lúc chưa gặp Tứ Tổ thời như thế nào?

- Tăng đáp: xoạt chân để chân thẳng.

Bên trong dường như hai vị tăng này có thể nói là dự biết trước, đã thấu rõ thời 7 tình, 8 gió[4], thấu triệt tới trăm nghìn hô đâu ứng đó… đưa tay giở chân đều không sai thời. Phát ra lời nào đều có qui ước như thế, tự tại như thế. Như lúc rãnh rỗi dùng ý thức xem rộng biết độ đáp cơ tác tụng, không phải thản nhiênquán sát được. Bịnh đến nghĩ tới vô thường, cũng giống như đêm trừ tịch tới vậy. Người thật bận rộn, tay quay tít một cảnh đời bi đát, há không tiếc thay! Mong rằng chúng ta nên lấy đây để cảnh tỉnh mới thấu rõ tám khổ giao xen nhau hoàn toàn không ngăn được, hoặc chưa được như vậy cũng khó tránh sự hiểu lầm. Xưa kia Ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư đắc Pháp Hoa tam muội tọa thiền nơi Hoa đảnh, bổng trong đêm sâu có gió lớn sấm chớp, quỉ mị bao vây hình dạng rất đáng sợ. Ngài an tâm ngồi yên tự nhiên mà chúng thoái lui; rồi lại hiện hình cha mẹ, sư tăng kêu gào than khóc. Ngài niệm sâu thật tướng tìm cách làm tiêu mất những hiện tượng ấy. Đến lúc Ngài sắp tịch diệt đệ tử hỏi: không rõ Thầy đạt quả vị gì? Chết đây sanh về đâu?

- Ngài đáp: ta không lãnh đạo chúng hẳn 6 căn vì người mà giảm, chỉ đạt năm phẩm vị thôi. Ngài còn khuyên Duy Na rằng, mạng ta sắp chấm dứt, nghe tiếng chuông khánh nên gia tăng chánh niệm, càng lâu càng tốt. Hơi thở dứt là một đời qua, khóc than, tang phục đều không hợp với ngôn ngữ. Chết như nhập thiền định. Ôi, đại sư Trí Giả còn nói là tha tổn, huống gì chúng ta ư? Đâu chẳng tự cảnh tỉnh chứ?

Tháng 12 còn gọi là diểu đông, lạp nguyệt (tháng chạp), thái cung, trừ nguyệt v.v…
 
 

Hết quyển 8

[1] Tam tai: 3 tai họa có hai loại lớn và nhỏ như:

- Tiểu tam tai: binh đao, dịch bệnh, đói kém.

- Đại tam tai: hỏa tai, thủy tai, phong tai. 3 tai họa này tự lần lượt khởi lên để hủy hoại thế giới mà không phải khởi đồng thời, như ta đã chứng kiến hiện tại trong thập niên qua tai họa xảy ra khắp nơi trên thế giới như sóng thần, lũ lụt

[2] 7 già nạn: trộm cắp vật của hiện tiền tăng - hành dâm với nam nữ trong lục thân - làm ô nhiễm phạm hạnh tăng ni - thấy cha bịnh mà bỏ đi không chăm sóc - thấy mẹ bịnh mà bỏ đi không chăm sóc - đối sư trưởng bịnh mà bỏ đi không săn sócsát hại chúng sanh phát bồ đề tâm

[3] Công án: thuật ngữ tức là từ chuyên môn của thiền tông. Công án là những lời của Phật, của Tổ để làm đối tượng suy tư của thiền sinh. Như nói: trước khi cha mẹ sinh ra ta là ai?

[4] Tám gió (bát phong): làm lay động tâm người học đạo. Ðó là: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, lạc. 1) lợi: lợi lộc, lợi thế, quy ền lợi; 2) suy: hư hoại, suy nhược, thương cảm; 3) hủy: nói xấu, hủy báng; 4) dự: khen, tán thưởng; 5) xưng: khen ngợi, ca tụng; 6) cơ: chê bai, miệt thị; 7) khổ: hoạn nạn, việc rối rắm; 8) lạc: vui sướng, an hạnh.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33307)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6562)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11310)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30422)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30449)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7996)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12225)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12272)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11622)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12853)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34815)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52286)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10767)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10540)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10730)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10479)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13098)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16308)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21870)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9638)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7139)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12784)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12808)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16254)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16551)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13882)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16616)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12144)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13857)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14342)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9227)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11769)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11291)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16355)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14369)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16212)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12703)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11808)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11528)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12681)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11977)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13144)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14571)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10980)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20736)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20411)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17678)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14039)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31871)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12030)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant