Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

20. Phẩm Thiện tri thức

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10854)
20. Phẩm Thiện tri thức

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 1
XX. Phẩm Thiện Tri Thức

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nên gần gũi Thiện tri thức, chớ lập theo hạnh ác, chớ tin vào nghiệp ác. Vì sao thế? Gần gũi Thiện tri thức rồi, niềm tin liền tăng thêm, giới, văn, thí, trí tuệ thảy đều tăng thêm. Nếu Tỳ-kheo gần gũi Thiện tri thức thì chớ tập theo hạnh ác. Vì sao thế? Nếu gần gũi Ác trí thức, sẽ không có tín, giới, văn, thí, trí tuệ. Thế nên các Tỳ-kheo! Hãy gần gũi Thiện tri thức, chớ gần gũi Ác tri thức. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với đại chúng Tỳ-kheo gồm năm trăm vị vây quanh trước sau mà thuyết pháp.

Bấy giờ Ðề-bà-đạt-đa dẫn năm trăm Tỳ-kheo đi qua, các Thế Tôn không xa. Thế Tôn từ xa trông thấy Ðề-bà-đạt-đa dẫn môn đồ liền nói kệ:

Chớ gần Ác tri thức,
Cũng chớ ngu theo hầu.
Nên gần Thiện tri thức,
Bậc tối thắng trong Người.
Người vốn không có ác,
Tập gần Ác tri thức,
Sau ắt trồng cội ác,
Ở mãi trong tăm tối.

Lúc đó năm trăm đệ tử của Ðề-bà-đạt-đa nghe Thế Tôn nói bài kệ này, liền đến chỗ Thế Tôn cúi lạy, ngồi xuống một bên. Chốc lát, lui ngồi hướng về Thế Tôn hối lỗi:

- Chúng con ngu mê không hiểu biết gì. Cúi mong Thế Tôn cho chúng con sám hối.

Bấy giờ Thế Tôn nhận lời sám hối của năm trăm Tỳ-kheo kia, liền thuyết pháp cho họ được tín căn. Lúc ấy, năm trăm Tỳ-kheo ở chỗ nhàn tĩnh, suy nghĩ pháp thâm sâu. Sở dĩ như vậy, con nhà vọng tộc xuất gia học đạo, do lòng tin kiên cố tu Phạm hạnh vô thượng. Bấy giờ năm trăm Tỳ-kheo ấy liền thành A-la-hán, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Bấy giờ năm trăm Tỳ-kheo thành A-la-hán.

Các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tônvô số chúng vây quanh thuyết pháp.

Lúc đó ngài Ðàm-ma-lưu-chi ở trong thất vắng, một mình suy nghĩ, nhập tam-muội thiền, xem thấy tiền thân ở trong biển lớn làm một con cá thân dài bảy trăm do-tuần, liền từ tịnh thất đứng lên như trong khoảng lực sĩ co duỗi cánh tay đến trên tử thi cũ trong biển lớn đi kinh hành. Bấy giờ Ðàm-ma-lưu-chi liền nói kệ này:

Sanh tử vô số kiếp,
Lưu chuyển không thể kể,
Mỗi mỗi cầu chỗ yên,
Thường thường chịu khổ não.
Dù thấy lại thân rồi,
Ý muốn tạo nhà cửa,
Tất cả chi tiết hoại,
Hình thể chẳng được toàn.
Tâm đã lìa các hạnh,
Ái trước trọn không sót,
Lại không thọ thân này,
Vui mãi trong Niết-bàn.

Bấy giờ Tôn giả Ðàm-ma-lưu-chi nói kệ này xong, liền từ chỗ đó biến mất, đến chỗ Thế Tôntinh xá Kỳ Hoàn, thuộc Xá-vệ. Khi ấy Thế Tôn thấy ngài Ðàm-ma-lưu-chi đến bèn bảo rằng:

- Lành thay, Ðàm-ma-lưu-chi! Lâu lắm mới đến đây!

Ngài Ðàm-ma-lưu-chi bạch Phật:

- Ðúng vậy, Thế Tôn! Ðã lâu con mới đến đây.

Bấy giờ, Thượng tọa và các Tỳ-kheo đều nghĩ:

- Ông Ðàm-ma-lưu-chi này hằng ở bên cạnh Thế Tôn mà nay Thế Tôn bảo là: 'Lành thay, Ðàm-ma-lưu-chi! Lâu lắm mới đến đây!'.

Thế Tôn biết tâm niệm các Tỳ-kheo như thế, muốn dứt sự hồ nghi nên lại bảo các Tỳ-kheo:

- Không phải vì Ðàm-ma-lưu-chi lâu đến đây mà Ta nói nghĩa này. Sở dĩ như thế vì khi xưa, vô số kiếp thời quá khứ có Ðịnh Quang Như lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, xuất hiện ở đời, giáo hóa tại nước Bát-ma-đại, cùng với mười bốn vạn tám ngàn đại chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ, bốn bộ chúng chẳng thể tính kể, quốc vương, quần thần, nhân dân đều đến cúng dường, cung cấp chỗ cần dùng.

Khi ấy có Phạm chí tên Da-nhã-đạt ở cạnh Tuyết Sơn xem các bài sấm bí mật, thiên văn, địa lý đều rành rẽ thông suốt, thư sớ văn tự cũng đều rõ biết; phúng tụng một câu năm trăm lời, tướng của bậc đại nhân cũng rõ biết nữa. Ông ta thờ các thần lửa, mặt trời, mặt trăng tinh tú. Ông dạy năm trăm đệ tử cả đêm không mệt mỏi. Da-nhã-đạt có đệ tử tên Vân Lôi, nhan mạo đoan chánh ít có ở đời, tóc màu xanh biếc. Phạm chí Vân Lôi thông minh thấy rộng, không việc gì chẳng thông, hằng được Da-nhã-đạt yêu mến không rời một khoảnh khắc.

Bấy giờ Bà-la-môn đưa ra tất cả những chú thuật mình hành hết rồi, Phạm chí Vân Lôi nghĩ rằng: 'Nay ra đã học đầy đủ những chỗ đáng học rồi'. Và lại tự nghĩ: 'Sách vở ghi các Phạm chí có học, người đã hành chú thuật xong, nên báo ân thầy. Ngày nay, chỗ đáng học ta đã đều biết hết. Nay ta phải nên báo ân thầy. Nhưng ta lại nghèo khó, trống trơn, không có gì để cúng dường thầy, phải nên đi xuống các cõi nước để tìm những vật cần'.

Phạm chí Vân Lôi liền đến chỗ thầy, bạch với thầy rằng:

- 'Pháp kỹ thuật mà Phạm chí phải học, nay con đã biết hết rồi. Nhưng sách vở ghi chép những người có học kỹ thuật qua rồi, nên báo ân Thầy, mà con nghèo thiếu, không có vàng bạc trân bảo có thể dùng cúng dường, nay muốn đến các cõi nước tìm kiếm tiền của để cúng dường thầy'.

Bà-la-môn Da-nhã-đạt liền nghĩ: 'Phạm chí Vân Lôi này là người ta yêu mến không rời tâm, dù ta có chết cũng chẳng thể chia lìa, huống là hôm nay muốn bỏ ta đi. Nay ra phải làm cách gì để lưu hắn lại được đây?'

Bấy giờ, Phạm chí Da-nhã-đạt liền bảo Vân Lôi:

- 'Này Phạm chí! Nay vốn có điều Bà-la-môn nên học mà Ông vẫn chưa biết'.

Phạm chí Vân Lôi liền đến trước bạch thầy:

- 'Cúi mong Thầy chỉ dạy, điều gì con chưa tụng?'

Vị thầy bảo Vân Lôi rằng:

- 'Nay có sách này tên là bài tụng năm trăm lời. Ông có thể thọ trì'.

Vân Lôi bạch:

- 'Mong Thầy truyền dạy, con muốn được phúng tụng'.

Tỳ-kheo nên biết! Khi ấy Da-nhã-đạt liền trao cho đệ tử bài tụng năm trăm lời này. Chưa đầy mấy ngày, vị đệ tử đã thông suốt hết. Bấy giờ Bà-la-môn Da-nhã-đạt bảo năm trăm đệ tử:

- 'Phạm chí Vân Lôi này kỹ thuật đầy đủ, không gì chẳng thông, nay ta đặt tên là Siêu Thuật'.

Phạm chí Siêu Thuật này thật là tài ba, thiên văn, địa lý đều thấu suốt rộng rãi, thư sớ văn tự cũng rõ biết. Phạm chí Siêu Thuật trải qua mấy ngày lại đến bạch thầy:

- 'Pháp kỹ thuật mà Phạm chí phải học, nay con đều biết rồi. Nhưng sách vở ghi chép: Các người có học thuật qua rồi, nên báo ân Thầy; nhưng con nghèo thiếu, không có vàng bạc, trân bảo có thể dùng cúng dường Thầy, nay con muốn đến cõi nước tìm tiền của dùng cúng dường Thầy. Cúi mong Thầy chấp thuận'.

Phạm chí Da-nhã-đạt bảo:

- 'Ông biết đúng lúc'.

Phạm chí Siêu Thuật đến trước lễ chân thầy rồi lui đi.

Bấy giờ nước Bát-ma-đại cách thành chẳng xa, có chúng Phạm chí tập trung một chỗ, muốn cúng tế chung và cũng muốn giảng luận, có đến tám vạn bốn ngàn Phạm chí nhóm chung. Vị thượng tọa đệ nhất, cũng lại phúng tụng thư sớ ngoại đạo, không gì không biết rành rẽ, thiên văn, địa lý, tinh tú, biến quái đều biết rõ hết. Mỗi lúc muốn giải tán, họ liền lấy năm trăm lượng vàng và một cây gậy vàng, một bồn tắm bằng vàng, một ngàn con trâu dâng lên vị thầy và thượng tọa đệ nhất.

Khi ấy Phạm chí Siêu Thuật nghe cách nước Bát-ma-đại không xa, có tám vạn bốn ngàn Phạm chí tụ tập một chỗ, họ có thi học thuật, người nào hơn liền được năm trăm lượng vàng và một cây gậy, một bồn tắm vàng với một con ngàn con trâu.

Lúc ấy Phạm chí Siêu Thuật tự nghĩ: 'Nay ta việc gì phải đi xin từng nhà, chẳng bằng đến đại chúng kia cùng so kỹ thuật'.

Bấy giờ Phạm chí Siêu Thuật ấy liền đến chỗ đại chúng. Lúc đó, rất đông Phạm chí trông thấy Phạm chí Siêu Thuật từ xa, đều cất tiếng kêu lớn:

- 'Lành thay, Từ chủ (Chủ tể)! Hôm nay được lợi lớn khiến cho Phạm chí đích thân giáng xuống.'

Rồi tám vạn bốn ngàn các Phạm Chí đều đứng lên nghinh đón, khác miệng đồng âm mà nói rằng:

- 'Chào mừng Ngài mới đến! Ðại Phạm Thần Thiên'.

Phạm Chí Siêu Thuật liền sanh niệm này:

- 'Các Phạm chí này gọi ta là Phạm Thiên, nhưng ta đâu phải là Phạm thiên!'

Phạm chí Siêu Thuật bảo các Bà-la-môn:

- 'Thôi, thôi! Chư Hiền! Chớ gọi tôi là Phạm thiên, các ông chẳng lẽ không nghe phía Bắc núi Tuyết có vị thầy của chúng Phạm chí tên Da-nhã-đạt, thiên văn, địa lý đều thông suốt sao?'

Các Phạm chí nói:

- 'Chúng tôi có nghe nhưng không được thấy.'

Phạm chí Siêu Thuật nói:

- 'Tôi là đệ tử của vị ấy, tên Siêu Thuật'

Bấy giờ Phạm chí Siêu Thuật hướng về vị thượng tọa đệ nhất của chúng ấy mà bảo rằng:

- 'Nếu ngài biết kỹ thuật, xin nói cho tôi với.'

Vị thượng tọa đệ nhất của chúng ấy liền hướng về Phạm chí Siêu Thuật, tụng Tam tạng, kỹ thuật không có sơ sót. Bà-la-môn Siêu Thuật lại bảo thượng tọa kia rằng:

- 'Còn một câu năm trăm lời, nay hãy nói ra'.

Vị thượng tọa kia nói:

- 'Tôi không hiểu nghĩa này! Cái gì là một câu năm trăm lời?'

Phạm chí Siêu Thuật bảo:

- 'Chư Hiền! Hãy yên lặng lắng nghe tôi thuyết một câu năm trăm lời về tướng của bậc đại nhân'.

Tỳ-kheo nên biết! Bấy giờ Phạm chí Siêu Thuật thuật hết Tam tạng và một câu năm trăm lời về tướng của bậc đại nhân. Khi ấy tám vạn bốn ngàn Phạm chí khen ngợi:

- 'Chưa từng có! Rất là kỳ quặc! Chúng ta chưa hề nghe một câu năm trăm lời ta về tướng của bậc Ðại nhân. Nay Tôn giả xứng đáng đứng trên vị thượng tọa đệ nhất.'

Bấy giờ Phạm chí Siêu Thuật đổi chỗ vị thượng tọa kia, đến ngồi chỗ cao nhất. Lúc ấy vị thượng tọa của chúng kia hết sức giận sữ, phát lời thề nguyện rằng: 'Nay người này dời chỗ ngồi của ta mà chiếm chỗ ấy. Nay phước mà ta có được do tụng kinh, trì giới, khổ hạnh đều đem hết để thề: Người này sanh chỗ nào, muốn làm gì, ta hằng làm hư hỏng công lao của ông ta'.

Bấy giờ vị thí chủ kia bỏ ra năm trăm lạng vàng và một gậy vàng, một bồn tắm vàng, một ngàn con trâu và một cô gái đẹp, đem đưa cho thượng tọa để chú nguyện. Lúc đó thượng tọa bảo chủ nhân rằng:

- Nay tôi nhận năm trăm lạng vàng này với gậy vàng, bồn vàng để cúng dường Thầy tôi. Cô gái này và ngàn con trâu trả lại chủ nhân. Vì sao thế? Vì tôi không tập dục, cũng không chứa chất tài sản.

Phạm chí Siêu Thuật nhận gậy vàng, bồn vàng rồi, liền đến nước Bát-ma-đại. Vua nước này tên là Quang Minh. Lúc ấy, quốc vương đang thỉnh Ðịnh Quang Như Lai và chúng Tỳ-kheo để cúng dường y thực. Quốc vương ra lệnh nhân dân trong thành: 'Ai có hương hoa đều không được bán, nếu có người bán sẽ bị phạt nặng. Ta sẽ xuất tiền mua, không cần bán cho người khác'. Vua lại ra lệnh cho nhân dân quét dọn sạch sẽ, không cho đất cát dơ bẩn, treo giăng phướn lọng, rưới nước hương trên đất, kỹ nhạc xướng ca không thể tính kể.

Bấy giờ Phạm chí kia thấy rồi, liền hỏi người đi đường:

- 'Hôm nay là ngày gì mà quét dọn đường sá, dẹp bỏ rác rến, treo giăng phướn lọng không thể tính kể, chẳng lẽ thái tử của vua lấy vợ chăng?'

Người đi đường đáp:

- 'Phạm chí không biết sao? Hôm nay quốc vương Bát-ma-đại thỉnh Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác để cúng dường y thực, nên sửa sang đường sá, treo giăng phướn lọng.'

- 'Nhưng bi ký của Phạm chí cũng có nói rằng: 'Như Lai ra đời rất khó gặp được. Ðúng lúc bèn xuất hiện, thật không thể thấy, ví như hoa Ưu-đàm-bát đúng thời mới nở. Ðây cũng như thế, Như Lai xuất hiện ở đời thật chẳng thể gặp'. Lại nữa, sách Phạm chí cũng có nói; 'Có hai người ra đời rất khó được gặp. Thế nào là hai người? Là Như LaiChuyển luân Thánh vương. Hai người này xuất hiện rất khó gặp được'.

Bấy giờ ông ta lại nghĩ rằng:

- 'Nay ta đâu cần cấp tốc báo ân thầy. Nay hãy đem năm trăm lượng vàng này, dâng lên Ðịnh Quang Như Lai'.

Ông lại nghĩ: 'Sách vở ghi Như Lai không nhận vàng bạc trân bảo. Ta có thể cầm năm trăm lượng vàng này mua hương hoa rải lên Như Lai.'

Bấy giờ Phạm chí liền vào trong thành tìm mua hương hoa. Mọi người qua lại trong thành bảo:

- 'Phạm chí không biết sao? Quốc vương có ra lệnh người nào bán hương sẽ phạt nặng.'

Phạm chí Siêu Thuật liền nghĩ: 'Ta thật phước mỏng, tìm hoa chẳng được biết làm thế nào?'

Rồi ông trở ra cửa thành mà đứng. Bấy giờ có một cô gái Bà-la-môn tên là Thiện Vị, cầm bình đi lấy nước, tay cầm năm cành hoa. Phạm chí thấy rồi hỏi cô gái ấy rằng:

- 'Ðại muội, nay tôi cần hoa, mong Em bán cho tôi'.

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Tôi em gái ông hồi nào? Ông có biết ba má tôi không?'

Phạm chí Siêu Thuật lại nghĩ: 'Cô gái này tánh nết phóng khoáng, có ý đùa cợt'. Rồi ông nói rằng:

- 'Hiền nữ! Tôi sẽ trả giá phải chăng, mong cho tôi hoa này'.

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Há Ông không nghe Ðại vương ra nghiêm lệnh không được bán hoa sao?'

Phạm chí nói:

- 'Hiền nữ! Việc này không khó. Vua không làm gì cô đâu! Nay tôi cần gấp năm cành hoa này. Tôi được hoa này còn cô được giá hời.'

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Hoa này đã lìa rễ, không thể sống được, làm sao lại nói 'tôi muốn trồng?'

Phạm chí đáp:

- 'Như chỗ ruộng tốt hôm nay tôi thấy, trồng tro nguội còn sống hà huống hoa này!'

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Cái gì là ruộng tốt? Trồng tro thế mà sống sao?'

Phạm chí đáp:

- 'Hiền nữ! Có Phật Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời.'

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Ðịnh Quang Như Lai là hạng người nào?'

Phạm chí liền bảo cô gái ấy rằng:

- 'Ðịnh Quang Như Lai có đức như thế, có giới như thế, thành tựu các công đức.'

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Dù người có công đức, nhưng Ông muốn cần phước gì?'

Phạm chí đáp:

- 'Mong đời sau tôi sẽ như Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, cấm giới, công đức cũng sẽ như thế.'

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Nếu Ông hứa với tôi đời đời làm vợ chồng, tôi sẽ cho Ông hoa.'

Phạm chí nói:

- 'Nay việc làm của tôi, ý không dính mắc dục tình.'

Cô gái Phạm chí nói:

- 'Như tôi, thân bây giờ không mong làm vợ Ông, cho tôi đời tương lai làm vợ Ông.'

Phạm chí Siêu Thuật nói:

- 'Hạnh của Bồ-tát không có yêu tiếc. Nếu làm vợ tôi, ắt phá hoại tâm tôi.'

Cô gái Phạm chí nói:

- ' Tôi trọn không làm hỏng ý bố thí của Ông, ngay cho đem thân tôi bố thí cho người, tôi trọn không làm hỏng tâm bố thí.'

Bấy giờ Phạm chí liền đem năm trăm lạng vàng mua năm cành hoa, cùng cô gái kia thề nguyền với nhau rồi từ biệt đi.

Lúc ấy, Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, đến giờ đắp y ôm bát cùng Tỳ-kheo Tăng trước sau vây quanh vào nước Bát-ma-đại. Phạm chí Siêu Thuật từ xa thấy Ðịnh Quang Như Lai, nhan mạo đoan chánh, ai trông thấy cũng hoan hỉ, các căn tịch tịnh, bước đi không rối loạn, có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, ví như nước lặng không có dơ đục, ánh sáng chiếu suốt không có chướng ngại, ví như núi báu xuất hiện vượt trên các núi. Ông ta thấy rồi liền phát tâm hoan hỉ đối với Như Lai, ông cầm năm cành hoa đến chỗ Ðịnh Quang Như Lai, đến rồi đứng một bên. Phạm chí Siêu Thuật bạch Phật Ðịnh Quang rằng:

- 'Mong Ngài nhận và thuyết pháp cho con. Nếu nay Ngài không truyền yếu quyết cho con, con sẽ ở chỗ này chấm dứt mạng sống, không mong sống nữa.'

Bấy giờ Thế Tôn bảo rằng:

- 'Phạm chí! Ðâu thể đem năm cành hoa này đòi truyền Vô Thượng Ðẳng Chánh Giác.'

Phạm chí bạch:

- 'Xin Thế Tôn thuyết pháp 'Bồ-tát sở hành cho con'.

Phạt Ðịnh Quang nói:

- 'Sở hành của Bồ-tát là không chỗ yêu tiếc.'

Bấy giờ Phạm chí liền nói kệ:

Chẳng dám đem cha mẹ,
Cầm thí cho người ngoài,
Phật, Chân nhân, Sư trưởng,
Cũng lại chẳng dám cho,
Nhật nguyệt xoay ở đời.
Hai thứ chẳng thể cho,
Thứ khác đều cho hết,
Ý quyết chẳng có khó.

Phật Ðịnh Quang lại dùng kệ này đáp Phạm chí:

Như điều Ông nói thí,
Chẳng phải lời Như Lai,
Nên nhẫn ức kiếp khổ,
Thí đầu, thân, mắt, tai,
Vợ con, nước, tiền của,
Xe ngựa, người theo hầu,
Nếu kham thí được vậy,
Ta sẽ truyền yếu quyết.
Ma-nạp (Phạm chí) liền nói kệ:
Núi lớn hừng như lửa,
ức kiếp kham đội đầu,
Chẳng thể hoại ý đạo,
Cúi mong truyền yếu quyết.

Bấy giờ Ðịnh Quang Như Lai im lặng chẳng nói. Phạm chí kia tay cầm năm cành hoa, quỳ gối mặt xuống đất, tung lên Ðịnh Quang Như Lai và nói:

- 'Riêng phước đức này dành cho đời sau, sẽ được như Ðịnh Quang Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác, không có sai khác.'

Rồi ông trải tóc mình trên bùn, thầm nghĩ: 'Nếu Như Lai truyền yếu quyết cho ta, thì sẽ lấy chân đạp trên tóc ta mà đi qua.'

Tỳ-kheo nên biết! Ðịnh Quang Như Lai quán sát tâm niệm của Phạm chí, liền bảo Phạm chí rằng:

- 'Ông đời tương lai sẽ làm Phật Thích-ca Văn Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác.'

Phạm chí Siêu Thuật có bạn đồng học tên Ðàm-ma-lưu-chi ở bên cạnh Như Lai. Vị này thấy Phật Ðịnh Quang truyền yếu quyết cho Phạm chí Siêu Thuật, lại đạp chân trên tóc, thấy rồi liền nói:

- 'Sa-môn đầu trọc này, sao nỡ cất chân đạp trên tóc Phạm chí thanh tịnh này. Ðây chẳng phải hạnh của người.'

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- 'Bấy giờ Phạm chí Da-nhã-đạt đâu phải người nào khác! Chớ nên xem như thế. Vì sao? Bấy giờ Da-nhã-đạt nay là vua Bạch Tịnh (Tịnh-phạn); thượng tọa của tám vạn bốn ngàn Phạm chí nay là Ðề-bà-đạt-đa, Phạm chí Siêu Thuật là Ta; cô gái Phạm chí bán hoa lúc đó, nay là Cù-di, vị từ chủ lúc đó nay là Phạm chí chấp trượng; Ðàm-ma-lưu-chi lúc đó, miệng tạo hạnh nói lời bất thiện nay là Ðàm-ma-lưu-chi. Sau đó, Ðàm-ma-lưu-chi trải qua vô số kiếp hằng làm súc sanh, thọ thân sau cũng làm thân cá dài bảy trăm do tuần ở trong biển lớn. Từ đó mạng chung đến sanh ở đây, cùng phụng sự thiện tri thức, hằng gần gũi thiện tri thức, tập các pháp lành, các căn thông lợi. Do nhân duyên này, Ta nói đã lâu mới đến đây. Ðàm-ma-lưu-chi cũng tự trình bày: 'Ðúng vậy, Thế Tôn! Ðã lâu con mới đến đây'. Thế nên, các Tỳ-kheo, thường nên tu tập thân, miệng, ý hành. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói: Có người như sư tử và có người như dê. Các Thầy hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ đó.

Các Tỳ-kheo đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo bâng lời Phật dạy, Thế Tôn bảo rằng:

- Người kia tại sao mà giống Sư tử? Ở đây, Tỳ-kheo! Có người được cúng dường y phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh. Người đó được rồi liền tự ăn uống, không khởi tâm dính mắc, cũng không có dục ý, chẳng khởi các tưởng, hoàn toàn không có niệm này, tự biết pháp xuất yếu. Cho dù không được lợi dưỡng, cũng không khởi loạn niệm, không có tâm tăng giảm. Ví như sư tử ăn thịt thú nhỏ. Bấy giờ vua loài thú ấy cũng không nghĩ rằng: 'Cái này tốt, cái này chẳng tốt', không có tâm dính mắc, cũng không dục ý, không khởi các tưởng. Người này cũng lại như thế. Nếu được cúng dường y phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men, trị bịnh, người này được rồi liền tự ăn uống, không khởi ý dính mắc; ví dù không được cũng không có các niệm.

Ví như có người nhân người cúng dường y phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh, được rồi liền ăn uống, khởi tâm dính mắc, sanh ý ái dục, không biết đạo xuất yếu. Giả sử không được, người ấy hằng sanh tưởng niệm này. Người ấy được cúng dường rồi, hướng về các Tỳ-kheo, mà tự cống cao hủy báng người khác: 'Chỗ ta hay được y phục, đồ ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh. Các Tỳ-kheo này không hay được.' Ví như có một con dê trong bầy dê lớn, ra khỏi bầy, đến đống phân lớn. Con dê này ăn phân no rồi trở về bầy dê, liền tự cống cao: 'Nay ta được ăn ngon, các con dê này không hay được ăn.' Ðây cũng như thế, nếu có một người được lợi dưỡng y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc men trị bịnh, khởi các loạn tưởng, sanh tâm dính mắc, người ấy liền hướng về các Tỳ-kheo mà tự cống cao: 'Ta hay được cúng dường, các Tỳ-kheo này chẳng hay được cúng dường'. Thế nên, các Tỳ-kheo hãy học như vua sư tử, chớ như dê. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có chúng sanh biết báo đền, người này đáng kính, ân nhỏ còn chẳng quên huống là ân lớn. Cho dù người ấy rời nơi đây ngàn do-tuần, trăm ngàn do-tuần mà chẳng là xa, vẫn không khác gần Ta. Vì sao? Tỳ-kheo nên biết, Ta thường khen ngợi người biết báo đền.

Có các chúng sanh chẳng biết báo đền, ân lớn còn chẳng nhớ hà huống nhỏ. Người đó chẳng gần Ta, Ta chẳng gần người đó. Ngay cho họ đắp Tăng-già-lê ở sát bên Ta, người này vẫn xa. Vì sao? Ta thường chẳng nói về người không báo đền. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nghĩ báo đền, chớ học không báo đền. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có người lười biếng, trồng hạnh bất thiện, có sự mất mát đối với công việc. Nếu có người có thể không lười biếng, tinh tấn, người này tối diệu, có sự tăng ích ở các pháp lành. Vì sao? Bồ-tát Di-lặc trải qua ba mươi kiếp, đáng lẽ làm Phật Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Ta do sức tinh tấn, dõng mãnh, khiến Di-lặc ở sau. Hằng sa Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác thời quá khứ đều do dũng mãnh mà được thành Phật. Do phương tiện này nên biết lười biếng là khổ, làm các hạnh ác, có tổn hại cho việc làm. Nếu hay tinh tấn, tâm dũng mãnh mạnh, các công đức lành co tăng thêm. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy nhớ tinh tấn, chớ có lười biếng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo tịch tĩnh (A-lan-nhã) nên tu hành hai pháp. Thế nào là hai pháp? Nghĩa là Chỉ và Quán. Nếu Tỳ-kheo tịch tĩnh, được Chỉ, thôi dứt, thì giới luật được thành tựu, chẳng mất oai nghi, chẳng phạm cấm hạnh, tạo các công đức. Nếu Tỳ-kheo tịch tĩnh lại được quán rồi, liền quán Khổ này, như thật mà biết, quán Khổ tập, quán Khổ tận, quán Khổ xuất yếu, như thật mà biết. Người đó quán như thế xong, tâm dục lậu giải thoát, tâm hữu lậu, tâm vô minh lậu được giải thoát, liền được trí giải thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Chư Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác quá khứ đều do hai pháp này mà được thành tựu. Vì sao thế? Giống như Bồ-tát lúc ngồi dưới gốc cây thọ vương, trước suy nghĩ pháp Chỉ và Quán này. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát được Chỉ rồi, liền có thể hàng phục ma oán. Nếu Bồ-tát lại được Quán rồi, liền thành tựu tam đạt trí, chứng đắc Vô Thượng Chí Chân Ðẳng Chánh Giác. Thế nên, các Tỳ-kheo! Tỳ-kheo tịch tĩnh nên tìm phương tiện hành hai pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có Tỳ-kheo tu hạnh tịch tĩnh (A-lan-nhã) ở chỗ vắng vẻ, không ở trong chúng, hằng nên cung kính, phát tâm hoan hỉ. Nếu lại có Tỳ-kheo tu tịch tĩnh, ở chỗ vắng vẻ, không có cung kính, không phát tâm hoan hỉ thì ngay cho ở trong đại chúng, họ sẽ bị người đàm luận là không biết pháp tịch tĩnh (A-lan-nhã): 'Thế là Tỳ-kheo tịch tĩnh này, không cung kính, không phát tâm hoan hỉ'.

Lại nữa Tỳ-kheo! Tỳ-kheo tịch tĩnh, ở chỗ vắng vẻ, không ở trong chúng, thường nên tinh tấn, chớ có giải đãi, tất sẽ hiểu rõ các pháp yếu. Nếu Tỳ-kheo tịch tĩnh (A-lan-nhã) lại ở chỗ vắng vẻ, có tâm lười biếng, tạo các hạnh ác thì họ ở trong chúng bị người luận bàn: 'Tỳ-kheo tịch tĩnh (A-lan-nhã) này giải đãi, không có tinh tấn.' Thế nên, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tịch tĩnh ở chỗ vắng vẻ, không ở trong chúng thường nên thấp ý, phát tâm hoan hỉ, chớ có giải đãi, không có cung kính, nhớ hành tinh tấn, ý không dời đổi, ở các pháp lành tất sẽ đầy đủ. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai người không thể khéo thuyết pháp ngữ. Thế nào là hai? Là người không tin mà thuyết pháp tin cho họ, việc này rất khó. Người tâm xan thamthuyết pháp thí cho họ, đây cũng rất khó.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Nếu người không tin mà thuyết pháp về đức tin cho họ, họ liền nổi sân giận, khởi tâm làm hại. Ví như chó dữ lại thêm mũi đau, càng giận dữ nhiều thêm. Các Tỳ-kheo! Ðây cũng như thế, người không tin mà thuyết pháp tin cho họ, họ liền nổi sân giận, sanh tâm tổn hại.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Nếu người xan thamthuyết pháp bố thí cho họ, họ liền sanh sân giận, khởi tâm tổn hại. Ví như mụt nhọt chưa mùi, lại thêm dao khoét đau không chịu nổi. Ðây cũng như thế, người xan thamthuyết pháp bố thí cho họ, họ lại càng sân giận, khởi tâm tổn hại. Ðó là, này Tỳ-kheo! Hai người này khó vì họ thuyết pháp.

Lại nữa, này Tỳ-kheo! Có hai người dễ vì họ thuyết pháp. Thế nào là hai? Người có lòng tin, thuyết pháp tin cho họ; người không xan tham thuyết pháp thí cho họ. Này Tỳ-kheo! Nếu người có lòng tin thuyết pháp tin cho họ, họ liền được hoan hỉ, ý không hối hận biến đổi. Ví như người có bệnh, nói thuốc trừ bệnh, liền được bình phục. Ðây cũng như thế, người có lòng tin, thuyết pháp tin cho họ, họ liền được hoan hỉ, tâm không biến đổi.

Lại nữa, nếu người không tham, thuyết pháp thí cho họ, họ liền được hoan hỉ, không có tâm hối hận. Ví như có trai, gái đoan chính, tự ưa tắm rửa mặt mũi tay chân, lại có người đến cầm hoa đẹp dâng lên tô bồi nhan sắc; lại lấy áo tốt, phục sức dâng lên người ấy. Người ấy được rồi càng thêm hoan hỉ. Ðây cũng như thế, người không lẫn tiếc, thuyết pháp thí cho họ, họ liền được hoan hỉ, không có tâm hối hận. Ðó là, này Tỳ-kheo, hai người này dễ vì họ thuyết pháp. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy học có lòng tin, cũng nên học bố thí, chớ có xan tham. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai pháp dành cho người phàm phu, được công đức lớn, thành quả báo lớn, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Thế nào là hai pháp? Là cúng dường cha, mẹ. Ðó là hai người được công đức lớn, thành quả báo lớn.

Lại nữa, nếu cúng dường Bồ-tát một đời bổ xứ, được công đức lớn, được quả báo lớn. Ðó là, này Tỳ-kheo! Bố thí hai người này được công đức lớn, hưởng quả báo lớn, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy thường nhớ hiếu thuận, cúng dường cha mẹ. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

11. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Dạy hai người làm lành, không thể báo ân được. Thế nào là hai? Nghĩa là cha, mẹ.

Này Tỳ-kheo, nếu lại có người, vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ đến ngàn vạn năm, lo y phục, thức ăn, giường nằm, thuốc men trị bịnh, dù cha mẹ tiểu tiện, đại tiện ở trên vai, người ấy vẫn chẳng thể báo ân được. Tỳ-kheo nên biết, cha mẹ ân nặng, bồng ẵm, nuôi nấng, tùy lúc gìn giữ chẳng lỡ thời tiết như được thấy mặt trời, mặt trăng. Dùng phương tiện này, biết ân này, khó báo. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy cúng dường cha mẹ, thường nên hiếu thuận, chẳng lỡ thời tiết. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

12. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Tôn giả Bàn-đặc bảo em là Châu-lợi-bàn-đặc rằng:

- Nếu em không thể trì giới được thì trở về làm cư sĩ.

Ngài Châu-lợi-bàn-đặc nghe lời này xong, liền đến đứng ngoài cửa Tinh xá Kỳ Hoàn khóc ròng. Bấy giờ đức Thế Tôn dùng Thiên nhãn thanh tịnh, xem thấy Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đứng ngoài cửa buồn khóc không dừng được. Thế Tôn liền từ tịnh thất đứng lên, dường như đi kinh hành, đến ngoài cửa Tinh xá Kỳ Hoàn hỏi Châu-lợi-bàn-đặc rằng:

- Tỳ-kheo, cớ sao đứng đây khóc lóc?

Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc đáp:

- Bạch Thế Tôn, Anh con xua đuổi con, nói không thể trì giới thì trở về làm cư sĩ, không nên ở đây. Vì thế, con buồn khóc.

Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo, chớ ôm lo sợ, Ta thành Vô Thượng Ðẳng Chánh Giác, chớ chẳng phải Bàn-đặc anh Thầy đắc đạo.

Bấy giờ Thế Tôn tay nắm Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc, dẫn đến tịnh thất bảo ngồi, rồi Thế Tôn lại dạy cầm chổi quét;

- Thầy tụng chữ này là chữ gì?

Bấy giờ Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc tụng chữ 'quét' lại quên chữ 'chổi'. Nếu tụng chữ 'chổi' lại quên chữ 'quét'. Bấy giờ Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc tụng 'chổi quét' này qua mấy ngày. Mà 'chổi quét' này gọi là trừ dơ. Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc lại nghĩ: 'Cái gì là trừ? Cái gì là dơ?'

Dơ là tro, đất, ngói, gạch; trừ là thanh tịnh.

Tôn giả lại nghĩ: 'Thế Tôn cớ sao dùng điều này dạy ta. nay ta nên suy nghĩ nghĩa này'. Do suy nghĩ nghĩa này, Tôn giả lại nghĩ: 'Nay trên thân ta cũng có bụi dơ, ta tự ví dụ. Thế nào là trừ? Thế nào là dơ?'

Tôn giả lại nghĩ: 'buộc kết là dơ, trí tuệ là trừ. Nay ta có thể lấy chổi trí tuệ quét trói buộc này.'

Bấy giờ Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc suy nghĩ Ngũ thạnh ấm, sự thành, sự bại, nghĩa là sắc này, sắc tập, sắc diệt; thọ, tưởng, hành, thức, sự thành sự bại cũng lại như vậy. Lúc ấy, Tôn giả tư duy về Ngũ thạnh ấm này xong, tâm dục được giải thoát, tâm hữu lậu, tâm vô mninh lậu được giải thoát; đã được giải thoát liền được trí giải thoát; sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân nữa, như thật mà biết. Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc liền thành A-la-hán. Ðã thành A-la-hán, Tôn giả liền từ chỗ ngồi đứng lên, đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên, bạch Thế Tôn:

- Nay con đã có trí, nay đã có tuệ, nay đã hiểu chổi quét.

Thế Tôn nói:

- Tỳ-kheo, Thầy hiểu thế nào?

Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc đáp:

- Trừ đó là tuệ, dơ là kết.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, Tỳ-kheo! Như lời Thầy nói, trừ là tuệ, dơ là kết.

Bấy giờ Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc hướng về Thế Tôn mà nói kệ:

Nay tụng này đã đủ,

Như chỗ Ngài đã nói,

Trí tuệ hay trừ dơ

Chẳng do hạnh nào khác.

Thế Tôn bảo:

- Tỳ-kheo, như lời Thầy nói, do trí tuệ chứ không do gì khác.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

13. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có hai pháp này, chẳng thể mong đợi cũng chẳng đủ yêu mến, người đời ném bỏ. Thế nào là hai pháp? Là oán ghét gặp gỡ. Ðiều này không thể mong đợi, cũng không đủ yêu mến, người đời ném bỏ; và ân ái biệt ly, chẳng thể mong đợi cũng không đủ yêu mến, người đời ném bỏ. Ðó là, Tỳ-kheo, có hai pháp này, người đời chẳng vui, chẳng thể mong đợi.

Này Tỳ-kheo, lại có hai pháp người đời chẳng bỏ. Thế nào là hai pháp? Oán ghét biệt ly là chỗ người đời ưa và ân ái tụ họp một chỗ, rất đáng yêu kính, là chỗ người đời ưa thích. Ðó là, Tỳ-kheo, có hai pháp người đời ưa thích. Nay Ta nói về oán ghét tụ họp, ân ái biệt ly này, lại nói oán ghét biệt ly, ái ân tụ họp là có nghĩa gì? Có duyên gì?

Tỳ-kheo đáp:

- Thế Tôn là vua các pháp, cúi mong Thế Tôn thuyết cho chúng con, các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng làm.

Thế Tôn bảo:

- Lắng nghe, khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì Thầy phân biệt nói. Này các Tỳ-kheo, hai pháp này do ái mà dấy lên, do ái mà sanh, do ái mà thành, do ái mà khởi. Nên học trừ ái, chớ khiến cho sanh. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11882)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10507)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13020)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8992)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19530)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant