Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

28. Phẩm Thanh văn

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12092)
28. Phẩm Thanh văn

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 2

XXVIII. Phẩm Thanh văn

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng năm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấy giờ, có bốn vị Ðại Thanh văn đang họp chung một nơi, bàn nhau: 'Chúng ta cùng xem thử trong thành La-duyệt này, có ai không tạo công đức, cúng dường Phật, Pháp và Chúng Tăng. Chúng ta hãy đến người không tin ấy khiến họ tin Như Lai, Pháp và Tăng'.

Ðó là các Tôn giả Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-diếp, Tôn giả A-na-luật và Tôn giả Tân-đầu-lô.

Bấy giờ có trưởng giả tên là Bạt-đề, nhiều tiền lắm của, không thể tính kể: vàng, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, đầy tớ, đều đầy đủ, nhưng lại xan tham không chịu bố thí; không có một chút thiện cảm đối với Phật, Pháp, Tăng, không hề tin tưởng, nên ông ta đã hết phước lại chẳng tạo phước mới. Ông hằng ôm tà kiến cho là không thí, không phước, cũng không có người thọ, cũng không quả báo thiện ác đời này, đời sau, cũng không có cha mẹ và người đắc A-la-hán, cũng lại không có người thủ chứng.

Nhà trưởng giả ấy có bảy lớp cửa, mỗi cửa đều có người giữ, không để cho ăn mày đến cửa. Ông lại lấy lồng sắt vây chụp trong sân sợ chim bay đến trong sân.

Trưởng giả có người chị tên là Nan-đà cũng xan tham không chịu bố thí, không trồng cội công đức, đã hết phước cũ mà không tạo thêm phước mới. Bà cũng ôm tà kiến cho là không thí, không phước cũng không người thọ, cũng không có quả báo thiện ác đời này, đời sau, cũng không cha mẹ, không người đắc A-la-hán, cũng không có người thủ chứng. Cửa nhà Nan-đà cũng có bảy lớp, cũng có người giữ cửa chẳng để người đến xin ăn. Bà cũng lại lấy lồng sắt chụp lên sân, không cho chim bay vào nhà.

Các Tôn giả bàn với nhau: 'Chúng ta hôm nay có thể khiến cho Nan-đà dốc lòng tin Phật, Pháp, Tăng'.

Bấy giờ, sáng sớm trưởng giả Bạt-đề ngồi ăn bánh. Tôn giả A-na-luật đến giờ, đắp y ôm bát từ dưới đất nhà trưởng giả đứng lên, đưa bát cho trưởng giả. Trưởng giả hết sức sầu lo, đưa một chút bánh cho A-na-luật. Ngài A-na-luật được bánh rồi liền trở về chỗ mình. Trưởng giả nổi cơn giận dữ bảo các người gác cửa:

- Ta ra lệnh không cho người vào cửa. Tại sao lại cho người vào?

Người gác cửa đáp:

- Cửa nẻo chắc chắn, không biết Ðạo sĩ này từ đâu đến.

Trưởng giả im lặng không nói. Ăn bánh xong, trưởng giả lại ăn tiếp thịt, cá. Tôn giả Ðại Ca-diếp đắp y ôm bát đến nhà trưởng giả, từ dưới đất đứng lên, đưa bát về phía trưởng giả. Trưởng giả hết sức buồn bực, đem một chút thịt cá cho ngài. Ngài Ca-diếp được thịt liền biến mất, trở về chỗ mình. Trưởng giả càng thêm sân giận, bảo người gác cửa.

- Trước ta đã ra lệnh không cho người vào nhà. Cớ sao lại để hai Sa-môn vào nhà khất thực?

Người gác cửa đáp:

- Chúng tôi không thấy Sa-môn này vào từ đâu!

Trưởng giả nói:

- Sa-môn trọc đầu này khéo dùng huyễn thuật cuống hoặc người đời, chẳng có hạnh chân chánh.

Bấy giờ vợ trưởng giả ngồi cách đó không xa. Người vợ này là em của trưởng giả Chất-đa, được cưới từ núi Ma-sư về. Người vợ bảo trưởng giả:

- Nên giữ miệng mồm. Chớ nói rằng Sa-môn học huyễn thuật. Vì sao? Các Sa-môn này có đại oai thần. Sở dĩ họ đến nhà trưởng giả là có nhiều ích lợi cho Ông. Trưởng giả! Ông có biết vị Tỳ-kheo đến trước chăng?

Trưởng giả đáp:

- Tôi không biết.

Người vợ nói:

- Trưởng giả có nghe con trai vua Hộc Tịnh nước Ca-tỳ-la-vệ tên A-na-luật, ngay khi sanh, mặt đất chấn động sáu lần. Chung quanh nhà trong một do tuần, các kho tàng tự nhiên hiện ra chăng?

Trưởng giả đáp:

- Tôi nghe có A-na-luật nhưng không thấy.

Người vợ bảo trưởng giả:

- Vị hào tộc này đã bỏ nhà xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh, đắc đạo A-la-hán, là vị thiên nhãn đệ nhất không ai hơn được. Và Như Lai cũng nói: 'Trong hàng đệ tử của Ta, thiên nhãn bậc nhất là Tỳ-kheo A-na-luật'. Kế đó, Ông có biết vị Tỳ-kheo thứ hai vào đây khất thực chăng?

Trưởng giả đáp:

- Tôi không biết.

Người vợ nói:

- Trưởng giả có nghe trong thành La-duyệt này có đại Phạm chí tên Ca-tỳ-la, lắm tiền nhiều của không thể tính kể, có chín trăm chín mươi chín trâu cày ruộng không?

Trưởng giả đáp:

- Tôi có thấy Phạm chí này.

Người vợ nói:

- Trưởng giả! Ông có nghe con của Phạm chí này tên là Tỷ-ba-la-da-đàn-na, thân màu vàng, vợ tên là Bà-đà, là vị thù thắng trong hàng nữ lưu. Nếu đem vàng tử ma đến trước cô ấy thì như đem đen mà so với trắng không?

Trưởng giả đáp:

- Tôi nghe Phạm chí này có con tên là Tỷ-ba-la-da-đàn-na, nhưng không thấy.

Người vợ nói:

- Chính là vị Tỳ-kheo đến sau vừa rồi đó. Ông ta đã bỏ báu ngọc nữ này, xuất gia học đạo, nay đắc A-la-hán, hằng hành hạnh đầu đà. Người có đầy đủ các pháp theo hạnh đầu đà không ai hơn Tôn giả Ca-diếp. Thế Tôn cũng nói: 'Trong hàng đệ tử của Ta, Tỳ-kheo hành đầu đà đệ nhất là Ðại Ca-diếp'.

Nay Trưởng giả chóng được lợi lành, mới khiến các vị Hiền Thánh đến đây khất thực. Tôi đã quán nghĩa này nên nói Ông khéo giữ miệng, chớ phỉ báng bậc Hiền Thánh, bảo họ là tạo huyễn thuật. Ðệ tử của đức Thích-ca đều có thần đức, nên tôi nói lời này.

Bấy giờ, Tôn giả Mục-kiền-liên đắp y ôm bát bay lên hư không đến nhà trưởng giả phá lồng sắt sụp xuống, rồi ngồi kiết-già trong hư không. Trưởng giả Bạt-đề thấy Tôn giả Mục-kiền-liên ngồi trong hư không liền sợ hãi nói:

- Ngài là Trời chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

- Tôi không phải là Trời.

Trưởng giả hỏi:

- Ngài là Càn-thát-bà chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

- Tôi không phải là Càn-thát-bà.

Trưởng giả hỏi:

- Ông là quỷ chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp.

- Tôi không phải quỷ.

Trưởng giả hỏi:

- Ông là quỷ La-sát ăn thịt người chăng?

Tôn giả Mục-kiền-liên nói:

- Tôi cũng chẳng phải quỷ La-sát ăn thịt người.

Trưởng giả Bạt-đề liền nói kệ:

Là Trời, Càn-thát-bà
La-sát, quỷ thần chăng?
Lại nói không phải trời,
Hay La-sát, quỷ thần,
Chẳng giống Càn-thát-bà,
Du hành trong khu vực,
Vậy Ông tên là gì?
Nay tôi muốn được biết.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên dùng kệ đáp:

Chẳng Trời, Càn-thát-bà,
Chẳng loài quỷ La-sát,
Ba đời được giải thoát,
Nay ta là thân người.
Có thể hàng phục ma,
Thành tựu đạo Vô thượng,
Thầy ta tên Thích-ca,
Ta tên Mục-kiền-liên.

Trưởng giả Bạt-đề nói với Tôn giả Mục-kiền-liên rằng:

- Tỳ-kheo có điều gì dạy bảo tôi?

Tôn giả Mục-kiền-liên đáp:

- Nay ta muốn thuyết pháp cho Ông, hãy khéo nghĩ nhớ!

Tôn giả lại nghĩ: 'Các Ðạo sĩ này suốt đời để ý uống ăn. Nay muốn luận bàn, chính là luận bàn về ăn uống. Nếu theo ta đòi ăn, ta sẽ nói 'không!'. Rồi ông lại nghĩ: 'Nay ta hãy nghe người này nói ít nhiều'.

Bấy giờ Tôn giả Mục-kiền-liên biết tâm niệm của trưởng giả, liền nói kệ:

Như Lai thuyết hai thí, 
Pháp thítài thí,
Nay sẽ thuyết pháp thí,
Chuyên tâm nhất ý nghe!

Trưởng giả nghe thuyết pháp thí, trong lòng hoan hỉ và thưa với Tôn giả Mục-liên:

- Mong Ngài diễn thuyết cho, tôi nghe rồi sẽ biết.

Tôn giả Mục-liên nói:

- Trưởng giả nên biết! Như Lai thuyết năm đại thí, nên nhớ tu hành suốt đời.

Trưởng giả lại nghĩ: 'Vừa rồi Tôn giả Mục-liên muốn thuyết pháp thí. Nay lại nói có năm đại thí'.

Tôn giả Mục-liên biết tâm trưởng giả, nên lại nói với trưởng giả:

- Như Lai nói có hai đại thí là pháp thítài thí. Nay tôi sẽ thuyết pháp thí, không thuyết tài thí.

Trưởng giả nói:

- Cái gì là năm đại thí?

Tôn giả Mục-liên đáp:

- Không được sát sanh, đây gọi là đại thí, trưởng giả nên suốt đời tu hành. Không trộm cắp, đây gọi là đại thí, nên suốt đời tu hành. Không dâm, không nói dối, không uống rượu, nên suốt đời tu hành.

Ðó là, này Trưởng giả, năm đại thí, nên nhớ tu hành.

Trưởng giả Bạt-đề nghe lời này rồi, hết sức hoan hỉ, nghĩ: 'Phật Thích-ca-văn thuyết pháp rất vi diệu. Nay chỗ diễn thuyết chẳng cần đến bảo vật. Như ngày nay, ta chẳng kham sát sanh. Ðiều này ta có thể vâng làm được. Hơn nữa, của cải nhà ta rất nhiều, ta trọn không trộm cắp. Ðây cũng là việc ta làm. Lại, đàn bà trong nhà ta rất đẹp, ta trọn chẳng dâm vợ người khác. Ðó là việc ta làm. Lại, ta không ưa người nói láo, huống là chính mình nói láo. Ðây cũng là việc ta làm. Như ngày nay, ta chẳng nghĩ đến rượu, huống là nếm nó. Ðây cũng là việc ta làm'. Trưởng giả liền thưa với Tôn giả Mục-liên:

- Năm thí này tôi có thể vâng làm.

Bấy giờ, trưởng giả thầm nghĩ: 'Nay ta nên mời Tôn giả Mục-liên ăn cơm'. Trưởng giả liền ngẩng đầu lên và thưa với Tôn giả Mục-liên:

- Ngài nên hạ cố xuống đây ngồi.

Tôn giả Mục-liên theo lời, xuống ngồi.

Trưởng giả Bạt-đề tự mình dọn các món ăn uống cho Tôn giả Mục-liên, Tôn giả Mục-liên ăn xong, uống nước. Trưởng giả nghĩ: 'Ta nên đem một tấm dạ dâng ngài Mục-liên'. Rồi ông vào kho chọn một tấm dạ trắng, muốn lựa cái xấu mà vớ nhằm tấm tốt. Ông lại bỏ ra, lựa tấm khác, cũng tốt luôn, ông lại bỏ để chọn tấm khác.

Tôn giả Mục-liên biết tâm niệm trưởng giả, liền nói kệ:

Thí cùng tâm đấu tranh, 
Phước này bậc Hiền bỏ,
Lúc cho, không đấu tranh,
Mới nên tùy tâm cho.

Bấy giờ, trưởng giả liền nghĩ: 'Nay Tôn giả Mục-liên biết ý ta'. Ông liền cầm tấm dạ trắng dâng lên Tôn giả Mục-liên. Tôn giả Mục-liên chú nguyện cho:

Quán sát thí đệ nhất,
Biết có người Hiền Thánh,
Trong thí là tối thượng
Ruộng lành sanh hoa trái.

Tôn giả Mục-liên chú nguyện xong, nhận tấm dạ trắng cho trưởng giả được phước vô cùng. Trưởng giả liền ngồi một bên. Tôn giả Mục-liên dần dần thuyết pháp về các diệu luận cho ông. Luận nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanh thiên, dục là tưởng bất tịnh, xuất yếu là vui. Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp Khổ, Tập, Tận, Ðạo; Tôn giả Mục-liên bèn thuyết hết cho trưởng giả. Ông ở ngay trên tòa được pháp nhãn tịnh. Như áo rất sạch dễ nhuộm màu, trưởng giả Bạt-đề này cũng lại như vậy: Ở ngay trên tòa được pháp nhãn thanh tịnh. Do đắc pháp, kiến pháp, không có hồ nghi mà thọ ngũ giới, ông tự quy y Phật, Pháp và Thánh chúng.

Tôn giả Mục-liên thấy trưởng giả đã được pháp nhãn thanh tịnh, liền nói kệ:

Như Lai chỗ thuyết kinh,
Căn nguyên đều đầy đủ,
Nhãn tịnh, không uế bẩn,
Không nghi, không do dự.

Trưởng giả Bạt-đề thưa với Tôn giả Mục-liên:

- Từ nay về sau, xin Ngài và bốn bộ chúng nhận lời thỉnh của con mãi mãi. Con sẽ cung cấp y phục, thức ăn uống, giường nệm, thuốc men trị bịnh, không có luyến tiếc.

Tôn giả Mục-liên thuyết pháp cho trưởng giả rồi, liền từ chỗ ngồi đứng lên đi. Các đại Tanh văn khác như Tôn giả Ca-diếp, Tôn giả A-na-luật nói với Tôn giả Tân-đầu-lô:

- Chúng tôi đã độ trưởng giả Bạt-đề rồi. Nay Hiền giả hãy đến hàng phục bà già Nan-đà.

Tôn giả Tân-đầu-lô đáp:

- Việc này rất hay.

Bấy giờ bà già Nan-đà đang làm bánh sữa. Tôn giả Tân-đầu-lô đến giờ, đắp y, ôm bát vào thành La duyệt để khất thực, dần dần đến nhà bà già Nan-đà. Tôn giả từ dưới đất vọt lên, đưa tay cầm bát cho bà già Nan-đà để khất thực. Bà già thấy Tôn giả Tân-đầu-lô, hết sức giận dữ nói ác:

- Tỳ-kheo nên biết! Dù Ông lọt mắt ra, ta trọn không cho Ông thức ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền nhập tam-muội cho hai mắt lọt ra ngoài. Bà già Nan-đà càng thêm sân giận, nói ác:

- Dù cho Sa-môn treo ngược trên không, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô lại dùng sức tam-muội treo ngược trên không trung.

Bà già Nan-đà càng tức giận bội phần liền nói ác:

- Dù cho Sa-môn toàn thân phun ra khói, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô lại dùng sức tam-muội toàn thân phun khói. Bà già thấy rồi, sân nộ càng nhiều và nói:

- Dù cho Sa-môn toàn thân bốc cháy, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền dùng sức tam-muội, khiến thân thể bốc cháy. Bà già thấy rồi lại nói:

- Dù cho Sa-môn toàn thân ra nước, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền lại dùng sức tam-muội khiến toàn thân ra nước. Bà già thấy rồi lại nói:

- Dù cho Sa-môn chết ở trước mặt ta, ta trọn chẳng cho Ông ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền nhập Diệt tận định, không còn hơi thở ra vào, chết trước mặt bà già. Bà già thấy Tôn giả ngưng hơi thở thì sợ hãi, lông áo dựng ngược và nghĩ: 'Sa-môn này là con dòng họ Thích, được nhiều người biết, Quốc vương cung kính. Nếu họ biết ông ta chết ở nhà mình, chắc chắn sợ ta không tránh khỏi gặp việc quan'.

Bà bèn nói:

- Sa-môn sống lại đi! Ta sẽ cho Sa-môn ăn.

Tôn giả Tân-đầu-lô liền từ tam-muội dậy. Bà già bèn nghĩ: 'Bánh này lớn quá, hãy làm cái nhỏ cho Ông ta'. Bà lấy một chút bột làm bánh, bánh bèn phồng to. Bà già thấy xong lại nghĩ: 'Bánh này lớn quá nên làm cái nhỏ nữa'. Nhưng bánh lại lớn. 'Hãy lấy cái bánh làm trước đem cho'. Bà liền lấy cái trước. Nhưng các cái bánh lại dính vào nhau. Bà Nan-đà bảo Tôn giả Tân-đầu-lô:

- Tỳ-kheo! Ông cần ăn thì tự lấy mà ăn. Cớ sao làm phiền nhiễu nhau thế.

Tôn giả Tân-đầu-lô đáp:

- Thí chủ nên biết, tôi chẳng cần ăn. Chỉ cần muốn nói với thí chủ.

Bà già Nan-đà nói:

- Tỳ-kheo muốn răn dạy gì?

Ngài Tân-đầu-lô nói:

- Thí chủ nên biết! Nay ta đem bánh đến chỗ Thế Tôn. Nếu Thế Tôn có dạy bảo gì, chúng ta sẽ cùng vâng làm.

Bà già Nan-đà đáp:

- Việc này rất phù hợp.

Bà già tự bưng bánh này theo sau Tôn giả Tân-đầu-lô, đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy Phật và đứng một bên. Bấy giờ, Tôn giả Tân-đầu-lô Bạch Thế Tôn:

- Bà Nan-đà này là chị của trưởng giả Bạt-đề, tham lam, ăn một mình chẳng chịu bố thí cho người. Cúi mong Thế Tôn thuyết pháp cho bà dốc lòng tin và cởi mở.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Bà già Nan-đà:

- Nay Bà hãy đưa bánh thí cho Như Lai và Tỳ-kheo Tăng.

Bà già Nan-đà lấy bánh dâng lên Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng khác. Bánh vẫn còn dư. Bà Nan-đà bạch Thế Tôn:

- Bánh còn dư.

Thế Tôn bảo:

- Lại đem cho Phật và Tỳ-kheo Tăng.

Bà già Nan-đà nhận lời Phật dạy, lại đem bánh này cúng Phật và Tỳ-kheo Tăng. Sau đó lại còn dư bánh, Thế Tôn bảo bà già Nan-đà.

- Nay Bà đem bánh này cho chúng Tỳ-kheo-ni, chúng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Nhưng vẫn còn dư bánh, Thế Tôn bảo:

- Nên đem bánh này thí cho người bần cùng.

Nhưng vẫn còn dư bánh. Thế Tôn bảo:

- Hãy đem bánh này bỏ nơi đất sạch hoặc để vào nước thật sạch. Vì sao thế? Ta trọn không thấy Sa-môn, Bà-la-môn, Trời và người nào có thể tiêu được bánh này, trừ Như Lai Chí Chân Ðẳng Chánh Giác.

Bà già Nan-đà đáp:

- Xin vâng, Thế Tôn!

Bà Nan-đà liền đem bánh này bỏ vào nước sạch, tức thời lửa bùng lên. Bà già Nan-đà thấy xong, ôm lòng sợ hãi đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy Phật rồi ngồi một bên. Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho Bà. Các luận nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanh Thiên, dục là tưởng bất tịnh, lậu là ô uế, xuất yếu là vui. Ngài đã thấy Bà già Nan-đà tâm khai ý mở. Chư Phật thường thuyết pháp Khổ, Tập, Tận, Ðạo. Thế Tôn đều thuyết hết cho Bà già Nan-đà. Khi ấy, Bà già Nan-đà ngay nơi chỗ ngồi được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như vải trắng dễ nhuộm màu, đây cũng như thế: Bà già Nan-đà hết các trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bà đã đắc pháp, thành tựu pháp, không có hồ nghi, đã hết do dự, được không chỗ sợ, phụng sự Tam Bảo, thọ trì ngũ giới

Bấy giờ Thế Tôn lại thuyết pháp thêm khiến bà phát tâm hoan hỉ. Bà già Nan-đà bạch Thế Tôn:

- Từ nay về sau, bốn bộ chúng hãy đến nhà con thọ thí. Từ nay trở đi, con hằng thường bố thí, tu các công đức phụng thờ các bậc Hiền Thánh.

Thưa xong, bà đứng lên cúi lạy Phật và lui đi.

Trưởng giả Bạt-đề và Bà già Nan-đà có em tên là trưởng giả Ưu-bà-ca-ni là người mà vua A-xà-thế lúc trẻ rất yêu mến. Bấy giờ, trưởng giả Ưu-bà-ca-ni kinh doanh ruộng nương, nghe anh là Bạt-đề và chị là Nan-đà được Như Lai giáo hóa. Nghe xong, ông vui mừng hớn hở không kềm được, trong suốt bảy ngày không ngủ nghỉ, cũng không ăn uống. Trưởng giả làm ruộng xong trở về thành La-duyệt, giữa đường nghĩ: 'Nay ta hãy đến chỗ Thế Tôn trước, rồi về nhà sau'. Trưởng giả đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi xuống một bên. Trưởng giả bạch Thế Tôn:

- Anh Bạt-đề và chị Nan-đà của con đã được Như Lai thuyết pháp giáo hóa phải chăng?

Thế Tôn đáp:

- Ðúng thế, nay trưởng giả Bạt-đề và Nan-đà đã thấy pháp Tứ đế, tu các pháp lành.

Trưởng giả Ưu-bà-ca-ni bạch Thế Tôn:

- Gia đình chúng con được lợi rất lớn.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy, Trưởng giả, như lời Ông nói. Nay cha mẹ Ông được lợi rất lớn, trồng phước đời sau.

Bấy giờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho trưởng giả. Trưởng giả nghe pháp xong, đảnh lễ lui đi. Ông đến chỗ vua A-xà-thế, ngồi xuống một bên. Vua hỏi trưởng giả:

- Có phải anh chị của Ông được Như Lai giáo hóa không?

- Ðúng vậy, Ðại vương!

Vua nghe lời này, vui mừng hớn hở không kềm được, liền đánh chuông trống ra lệnh trong thành: 'Từ nay về sau, nhà nào không thờ Phật sẽ bị nộp tiền, và phải đón rướctiễn đưa những người thờ Phật. Vì sao thế? Vì đây đều là huynh đệ trong đạo pháp của ta'.

Bấy giờ vua A-xà-thế bày các thức ăn uống ban cho trưởng giả. Trưởng giả nghĩ: 'Ta trọn không nghe Thế Tôn thuyết pháp Ưu-bà-tắc nên nhận thức ăn loại nào, nên uống nước loại nào. Nay ta nên đến chỗ Thế Tôn, trước hỏi nghĩa này, sau sẽ ăn'. Trưởng giả liền bảo một người thân cận:

- Ông đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy, đem lời ta bạch Thế Tôn: 'Trưởng giả Ưu-bà-ca-ni bạch Thế Tôn: phàm pháp Hiền giả nên trì mấy giới, lại phạm mấy giới thì chẳng phải là cư sĩ nam? Nên ăn loại thức ăn nào? Uống loại nước nào?

Người đó nhận lời dạy của trưởng giả, đến chỗ Thế Tôn cúi lạy Phật rồi đứng một bên. Người đó đem tên trưởng giả bạch Thế Tôn:

- Phàm pháp cư sĩ nam nên giữ mấy giới? Phạm mấy giới thì chẳng phải Ưu-bà-tắc? Lại nên ăn loại thức ăn nào? Uống loại nước nào?

Thế Tôn bảo:

- Nay Ông nên biết! Ăn có hai loại: có thể thân cận và không thể thân cận. Thế nào là hai? Nếu thân cận lúc ăn, khởi pháp bất thiện, pháp lành bị tổn giam. Thức ăn này không thể thân cận. Nếu lúc được ăn, pháp lành tăng thêm, pháp bất thiện tôn giảm. Thức ăn này có thể thân cận.

Nước cũng có hai việc. Nếu lúc được uống, khởi pháp bất thiện, pháp lành bị tổn giảm. Ðây chẳng thể thân cận. Nếu lúc được uống, pháp bất thiện tổn giảm, pháp lành có tăng trưởng. Ðây có thể thân cận.

Phàm pháp cư sĩ, hạn chếnăm giới. Trong đó có thể giữ một giới, hai giới, ba giới, bốn giới cho đến năm giới, đều nên gìn giữ. Phải hỏi hai ba phen, người có thể gìn giữ được mới cho gìn giữ. Nếu cư sĩ nam phạm một giới rồi thì thân hoại mạng chung, đọa trong địa ngục. Nếu người cư sĩ lại vâng giữ một giới thì sanh vào cõi lành, lên trời, hà huống hai, ba, bốn năm.

Người kia nhận lời Phật dạy rồi, đảnh lễ lui đi. Khi người ấy đi cách đó không xa. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Từ nay về sau, Tỳ-kheo được phép truyền ngũ giớitam quy cho Ưu-bà-tắc. Nếu Tỳ-kheo lúc muốn truyền giới cho cư sĩ nữ, dạy họ để lộ cánh tay, vòng tay, chắp ngón tay, dạy xưng tên họ, quy y Phật, Pháp, Thánh chúng ba phen. Ðã dạy xưng tên họ quy y Phật, Pháp, Thánh chúng, rồi lạy tự xưng: 'Nay con quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng, Như Phật Thích-ca-văn đầu tiên có năm trăm khách buôn thọ tam tự quy, suốt đời không giết, không trộm, không dâm, không dối, không uống rượu'. Như trì một giới còn dư bốn giới; nếu thọ hai giới còn dư ba giới; nếu thọ ba giới còn dư hai giới; nếu thọ bốn giới còn dư một giới. Nếu thọ năm giới sẽ là người trì đầy đủ.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay mặt trời, mặt trăng có bốn thứ che lấp nặng nề khiến không phóng được ánh sáng. Bốn loại nào? Mây, gió bụi, khói và A-tu-la, khiến mặt trời, mặt trăng bị che không phóng ánh sáng được. Ðó là, này Tỳ-kheo, mặt trời, mặt trăng có bốn thứ che đậy, khiến mặt trời, mặt trăng không phóng ánh sáng lớn được. Ðây cũng như thế, Tỳ-kheo có bốn kết che đậy tâm người không được cởi mở. Thế nào là bốn? Dục kết che đậy tâm người không được khai mở, sân nhuế, ngu silợi dưỡng che đậy tâm người không khai mở được.

Ðó là, này Tỳ-kheo, có bốn kết che đậy tâm người không khai mở được. Hãy cầu phương tiện diệt bốn kết này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở bên cạnh đền thờ A-la-tỳ. Bấy giờ trời rất lạnh lẽo, cây cối trơ trụi.

Khi ấy, con của trưởng giả Thủ-a-la-bà ra khỏi thành ấy, đi dọc theo bên ngoài, dần đến chỗ Thế Tôn, đến rồi cúi lạy và ngồi xuống một bên. Con trưởng giả bạch Thế Tôn:

- Chẳng rõ hôm rồi Ngài ngủ ngon chăng?

Thế Tôn đáp:

- Ðúng vậy, Chàng trai. Ta ngủ ngon lắm.

Con của trưởng giả bạch Phật:

- Nay là ngày rất lạnh, vạn vật trơ trụi. Thế Tôn lại ngồi đệm cỏ, mặc y áo quá mỏng manh. Thế sao Thế Tôn nói: 'Ta ngủ ngon lắm'.

Thế Tôn bảo:

- Chàng trai lắng nghe! Nay Ta hỏi lại, hãy theo đó mà trả lời! Ví như nhà trưởng giả chắc chắn, phòng nhà không có gió bụi. Trong nhà đó, có giường nệm, mền, mùng, chiếu, gối đầy đủ mọi thứ. Có bốn ngọc nữ nhan sắc đoan chánh, mặt như hoa đào, hiếm có ở đời, nhìn không chán mắt, đèn đốt sáng sủa. Vậy trưởng giả ấy có ngủ ngon được chăng?

Con của trưởng giả đáp:

- Ðúng thế, Thế Tôn! Có giường nằm tốt thì ngủ rất ngon.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào, Chàng trai? Nếu người ngủ được ngon giấc rồi nổi dục ý. Do dục ý này có mất ngủ chăng?

Con của trưởng giả đáp:

- Ðúng vậy, Thế Tôn! Nếu người kia dục ý nổi lên, liền không ngủ được.

Thế Tôn bảo:

- Như người kia dục ý mạnh. Nay Như Lai đã dứt hẳn không sót, không còn gốc rễ, chẳng còn hưng khởi nữa. Thế nào, Chàng trai, nếu có tâm sân giận, ngu si nổi lên, há ngủ ngon được sao?

Chàng trai đáp:

- Không ngủ ngon được. Vì sao thế? Do tâm có ba độc vậy.

Thế Tôn bảo:

- Như Lai hôm nay không còn tâm này, dứt hẳn không sót, cũng không gốc rễ. Chàng trai nên biết! Nay Ta sẽ nói về bốn loại tòa. Thế nào là bốn? Có tòa thấp hèn, có tòa của Thiên, tòa của Phạm thiên và tòa của Phật. Chàng trai nên biết! Tòa thấp là tòa của Chuyển luân Thánh vương. Tòa Thiên là tòa Thích-đề-hoàn nhân. Tòa Phạm thiên là tòa của Phạm thiên vương. Tòa Phật là tòa Tứ đế.

Toà thấp là tòa hướng Tu-đà-hoàn. Tòa Thiên là tòa đắc Tu-đà-hoàn. Tòa Phạm thiên là tòa hướng Tư-đà-hàm. Tòa Phật là tòa Tứ ý chỉ.

Tòa thấp là tòa đắc Tư-đà-hàm. Tòa Thiên là tòa hướng A-na-hàm. Tòa Phạm thiên là tòa đắc quả A-na-hàm. Tòa Phật là tòa Tứ đẳng.

Tòa thấp là tòa Dục giới. Tòa Thiên là tòa Sắc giới. Tòa Phạm thiên là tòa Vô sắc giới. Tòa Phật là tòa Tứ thần túc.

Thế nên, này Chàng trai! Như Lai đã ngồi tòa Tứ thần túc, chóng được ngủ ngon. Trong đó không khởi dâm, nộ, si. Ðã chẳng khởi tâm ba độc này, liền ở Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thực mà biết. Thế nên Chàng trai! Ta quán nghĩa này xong, nên nói Như Lai chóng được ngủ ngon.

Bấy giờ, con của trưởng giả liền nói kệ:

Gặp nhau ngày rất lâu,
Bát-niết-bàn Phạm chí,
Do nương sức Như Lai,
Rõ ngủ và diệt độ.
Tòa thấp và tòa Thiên,
Tòa Phạm và tòa Phật,
Như Lai đều phân biệt,
Thế nên được ngủ ngon.
Tự quy Nhân Trung Tôn.
Cũng quy Nhân Trung Thượng,
Nay con chưa thể biết,
Là nương những Thiền nào?

Con của trưởng giả nói lời xong, Thế Tôn im lặng bằng lòng. Con của trưởng giả liền nghĩ: 'Thế Tôn đã hứa khả. Ta vui mừng hết sức, không kềm được', liền từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy Phật mà lui đi.

Bấy giờ chàng trai ấy nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng năm trăm đại chúng Tỳ-kheo. Khi ấy Thế Tôn từ tịnh thất đứng lên, đi xuống núi Linh Thứu, cùng Phạm chí Lộc Ðầu, dần dần du hành đến bãi tha ma đáng sợ.

Bấy giờ, Thế Tôn cầm một đầu lâu người chết trao cho Phạm chí và bảo:

- Phạm chí! Nay Ông rõ được tinh tú lại kiêm cả thuốc men, có thể trị lành bịnh chúng sanh. Ông hiểu hết các nẻo, cũng còn có thể biết nhân duyên người chết. Nay Ta hỏi ông: Ðây là đầu lâu người nào? Là đàn ông hay đàn bà? Lại do bịnh gì mà chết?

Lúc ấy, Phạm chí liền cầm đầu lâu, lật qua lật lại quan sát, lấy tay gõ gõ rồi bạch Thế Tôn:

- Ðây là đầu lâu đàn ông, không phải đàn bà.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng thế! Phạm chí! Như lời Ông nói. Ðây là đàn ông, chẳng phải đàn bà.

Thế Tôn hỏi:

- Do đâu người này mạng chung?

Phạm chí lại cầm gõ đầu lâu và bạch Thế Tôn:

- Ðây là nhiều bệnh nhóm lại. Trăm đốt xương đau nhức đến chết.

Thế Tôn hỏi:

- Nên dùng cách nào trị?

Phạm chí Lộc Ðầu bạch Phật:

- Nên lấy trái a-lê-lặc hòa chung với mật, rồi uống thì bệnh lành được.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay! Như lời ông nói. Nếu người này được uống thuốc ấy thì cũng chưa chết. Ngày nay, người này mạng chung, sanh đến chỗ nào?

Phạm chí nghe xong, lại cầm đầu lâu gõ, bạch Thế Tôn:

- Người này mạng chung đọa trong ba đường ác, không sanh chỗ lành.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy, Phạm chí! Như lời Ông nói. Ông ta đọa trong ba đường ác, sanh chỗ chẳng lành.

Bấy giờ, Thế Tôn lại cầm một đầu lâu nữa đưa cho Phạm chí và hỏi:

- Ðây là người nào? Nam hay nữ?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Ðâu lâu này thân đàn bà.

Thế Tôn hỏi:

- Do bệnh tật gì mà chết?

Phạm chí Lộc Ðầu lại lấy tay gõ, rồi bạch Thế Tôn:

- Ðàn bà này mang thai mà chết.

Thế Tôn bảo:

- Ðàn bà này vì sao chết?

Phạm chí bạch Phật:

- Ðàn bà này sanh non tháng nên chết.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Phạm chí! Như lời Ông nói. Bà ta mang thai mà chết lại có cách nào trị?

Phạm chí bạch:

- Như bệnh này cần có bơ, đề hồ tốt uống thì khỏi.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng thế, đúng thế! Như lời Ông nói. Nay người đàn bà này đã chết rồi sanh chỗ nào?

Phạm chí bạch Phật:

- Người đàn bà này mạng chung sanh trong súc sanh.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Phạm chí! Như lời Ông nói.

Thế Tôn lại cầm một đầu lâu khác đưa cho Phạm chí và hỏi:

- Nam hay nữ?

Phạm chí lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Ðầu lâu này là đàn ông.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người này do bịnh tật gì mà chết?

Phạm chí lại lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

- Người này mạng chungăn uống quá độ, lại gặp thổ tả nên chết.

Thế Tôn bảo:

- Bệnh này có cách nào trị?

Phạm chí bạch Phật:

- Nhịn đói ba ngày liền khỏi.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người này mạng chung sanh về đâu?

Bấy giờ Phạm chí lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Người này mạng chung sanh trong ngạ quỷ. Vì sao thế? Vì nghĩ đến nước.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. 

Bấy giờ Thế Tôn lại cầm một đầu lâu khác trao cho Phạm chí và hỏi:

- Nam hay nữ?

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

- Ðầu lâu này là đàn bà.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói, người này bịnh gì mà chết?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Lúc đang sanh thì chết.

Thế Tôn bảo:

- Tại sao đang sanh mà chết.

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

- Người đàn bà này khí lực suy kiệt và đói quá mà chết.

Thế Tôn bảo:

- Người này mạng chung sanh chỗ nào?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Người này mạng chung sanh trong loài Người.

Thế Tôn bảo:

- Phàm người chết đói mà muốn sanh trong chỗ lành, việc này chẳng đúng; đọa trong ba đường ác thì thích đáng hơn!

Phạm chí lại lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

- Người đàn bà này trì giới đầy đủ mà chết.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người đàn bà này cấm giới đầy đủ đến lúc mạng chung. Vì sao thế. Phàm có đàn ông, đàn bà cấm giới hoàn toàn thì lúc mạng chung sẽ đi vào hai đường: hoặc lên Trời hay trong loài Người.

Bấy giờ, Thế Tôn lại cầm một đầu lâu khác đưa cho Phạm chí hỏi:

- Nam hay nữ?

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

- Ðầu lâu này là đàn ông.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói người này bịnh gì mà chết?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Người này không bịnh mà bị người hại chết.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói, vị ấy bị người hại mà chết.

Thế Tôn bảo:

- Người này chết sanh về đâu?

Phạm chí lấy tay gõ, bạch Thế Tôn:

- Người này chết sanh trong cõi lành, lên Trời.

Thế Tôn bảo:

- Như lời Ông nói, luận trước, luận sau không hợp nhau.

Phạm chí bạch Phật:

- Vì duyên cớ gì mà không hợp nhau?

Thế Tôn bảo:

- Ðàn ông, đàn bà bị người hại mà chết, đều đọa ba đường ác. Sao Ông lại nói sanh cõi lành, lên Trời?

Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Người này vâng giữ năm giới kiêm hành thập thiện, nên đến lúc mạng chung sanh chỗ lành, lên Trời.

Thế Tôn bảo:

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người giữ giới không xúc chạm, sanh chỗ lành, lên Trời.

Thế Tôn lại lập lại:

- Người này giữ mấy giới mà chết?

Bấy giờ, Phạm chí lại chuyên chú một lòng, không nghĩ gì khác. Ông lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Trì một giới ư? Không phải. Trì hai, ba, bốn, năm chăng? Không phải. Người này trì pháp bát quan trai mà chết.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay, lành thay! Như lời Ông nói. Người này giữ giới bát quan trai mà chết.

Bấy giờ ở phương Ðông, phía Nam núi Phổ Hương có Tỳ-kheo Ưu-đàn-diên nơi Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết-bàn. Khi ấy Thế Tôn trong khoảng co duỗi cánh tay, đến lấy đầu lâu của Tỳ-kheo đưa cho Phạm chí và hỏi:

- Nam hay nữ?

Bấy giờ Phạm chí lại lấy tay gõ đầu lâu, bạch Thế Tôn:

- Tôi xem đầu lâu này, nguồn gốc không phải nam cũng không phải nữ. Vì sao thế? Tôi quán đầu lâu này cũng không thấy sanh, cũng không thấy đoạn cũng không thấy xoay vần qua lại. Vì sao thế? Tôi xem tám phương, trên dưới đều không có tăm hơi. Bạch Thế Tôn! Nay tôi chưa rõ đầu lâu này của ai?

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi! Phạm Chí! Ông trọn không biết là đầu lâu của ai. Ông nên biết rằng: đầu lâu này không đầu không cuối, cũng không sanh tử, cũng không thích ứng ở tám phương, trên dưới. Ðây là Tỳ-kheo Ưu-đà-diên ở phía Nam núi Phổ Hương phương Ðông. Tỳ-kheo nơi Vô dư Niết-bàn mà Bát-niết bàn. Chính vì đầu lâu của bậc A-la-hán.

Bấy giờ Phạm thiên nghe lời này xong, khen chưa từng có, liền bạch Phật:

- Nay tôi xem nhưng con trùng như con kiến này từ chỗ này đến thảy đều biết được. Tiếng tăm của chim thú, tôi có thể phân biệt biết được: đây là con đực, đây là con cái. Nhưng tôi xem vị A-la-hán này trọn không thấy gì, chẳng thấy chỗ đến cũng chẳng thấy chỗ đi. Chánh pháp Như Lai rất là kỳ đặc. Vì sao thế? Gốc của các pháp phát ra từ kim khẩu của Như Lai. Mà A-la-hán phát xuất từ gốc của kinh pháp.

Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy, Phạm chí! Như lời Ông nói. Gốc của các pháp phát xuất từ miệng Như Lai. Ngay cho chư Thiên, người đời, Ma hoặc Ma thiên, trọn không thể biết chỗ đến của A-la-hán.

Bấy giờ, Phạm chí cúi lạy và bạch Thế Tôn:

- Con có thể biết hết chín mươi sáu loại thú hướng, thảy đều biết hết, nhưng chỗ thú hướng của pháp Như Lai, con không thể phân biệt. Cúi mong Thế Tôn cho con được vào đạo.

Thế Tôn bảo:

- Lành thay! Phạm chí! Mau tu Phạm hạnh rồi cũng sẽ không ai biết chỗ thú hướng của ông.

Bấy giờ Phạm chí liền được xuất gia học đạo. Ông ở chỗ vắng vẻ, tư duy đạo thuậtđạt đến mục đích mà vị vọng tộc cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y nhắm đến, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thực mà biết. Lúc ấy Phạm chí thành A-la-hán.

Khi ấy Tôn giả Lộc Ðầu bạch Thế Tôn:

- Nay con đã biết pháp tu hành của A-la-hán.

Thế Tôn bảo:

- Ông biết hạnh của A-la-hán thế nào?

Tôn giả Lộc Ðầu bạch Phật:

- Nay có bốn loại giới. Thế nào là bốn? Ðịa giới, thủy giới, hỏa giớiphong giới. Ðó là, bạch Thế Tôn! Có bốn loại giới này. Lúc ấy, người mạng chung thì đất liền tự thuộc đất, nước liền tự thuộc nước, lửa thì tự thuộc lửa, gió thì tự thuộc gió.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào Tỳ-kheo, nay có mấy giới?

Tôn giả Lộc Ðầu bạch Phật:

- Kỳ thực, nghĩa của bốn giới có tám giới.

Thế Tôn bảo:

- Thế nào là nghĩa bốn giới có tám giới?

Tôn giả Lộc Ðầu bạch Phật:

- Nay có bốn giới. Thế nào là bốn giới? Ðất, nước, lửa và gió. Ðó là bốn giới. Thế nào là nghĩa có tám giới? Ðịa giới có hai loại: nội địa và ngoại địa. Thế nào gọi là loại nội địa? Tóc, lông, móng, răng, thân thể, da dẻ, gân cốt, tủy não, ruột, bao tử, gan, mật, tỳ thận. Ðó gọi là nội địa. Thế nào là ngoại địa? Có các thứ cứng chắc. Ðây gọi là loại ngoại địa. Ðó là hai loại địa (đất).

Thế nào là thủy chủng? Thủy chủng có hai: nội thủy chủng và ngoại thủy chủng. Nội thủy chủng là đờm dãi, nước mắt, nước tiểu, máu, tủy. Ðó gọi là nội thủy chủng. Các vật mềm ướt bên ngoài, đó gọi là ngoại thủy chủng. Ðây gọi là hai loại thủy (nước).

Thế nào gọi là hỏa chủng? Hỏa chủng có hai: nội hỏa và ngoại hỏa. Thế nào gọi là nội hỏa? Các vật bị ăn, thảy đều tiêu hóa không có dư sót. Ðây gọi là nội hỏa. Thế nào gọi là ngoại hỏa? Các vật chứa nhiệt, vật bên ngoài. Ðây gọi là ngoại hỏa. Ðó là hai loại hỏa (lửa).

Thế nào gọi là phong chủng? Phong chủng có hai: nội phong và ngoại phong. Nội phong nghĩa là gió trong môi, gió mắt, gió đầu, gió hơi thở ra, gió hơi thở vào, gió trong tất cả đốt xương. Ðây gọi là nội phong. Thế nào gọi là ngoại phong? Nghĩa là vật nhẹ nhàng, lay động mau chóng. Ðây gọi là ngoại phong. Ðó là, bạch Thế Tôn có hai loại phong (gió), kỳ thực có bốn mà đếm có tám. Như thế, bạch Thế Tôn! Con xét nghĩa này: con người nếu lúc mạng chung, bốn loại mỗi thứ trở về với gốc của nó.

Thế Tôn bảo:

- Pháp vô thường cũng chẳng cùng hữu thường hợp. Vì sao như thế? Ðịa chủng, có hai, hoặc trong hoặc ngoài. Bấy giờ nội địa chủng là pháp vô thường, là pháp biến đổi. Loại ngoại địa là pháp hằng trụ không biến đổi. Ðó là đất có hai loại chẳng cùng hữu thường, vô thường tương ưng. Ba đại kia cũng lại như thế, không cùng tương ứng với hữu thường, vô thường. Thế nên, Lộc Ðầu! Tuy có tám loại, kỳ thực có bốn. Như thế, Lộc Ðầu, nên học điều này.

Bấy giờ Tôn giả Lộc Ðầu nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay có nghĩa của bốn sự quảng diễn lớn. Thế nào là bốn? Nghĩa là Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm (luận) và Giới. Ðó là bốn.

Tỳ-kheo nên biết! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Ðông đến, tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới và nói: 'Tôi hay tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới, học rộng nghe nhiều'; thì dù cho Tỳ-kheo đó có nói gì, các Thầy chẳng nên thừa nhận, chớ hết lòng tin. Các Thầy giữ Tỳ-kheo ấy lại, cùng luận nghị, án pháp cùng luận. Thế nào là án pháp cùng luận? Nghĩa là luận về bốn quảng diễn này: Ðó là Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, và Giới. Các Thầy hướng Tỳ-kheo ấy thuyết Khế kinh, bố hiện luật, phân biệt pháp.

Ngay lúc thuyết Khế kinh, lúc bố hiện luật, phân biệt pháp, nếu người ấy bổ hiện cùng với Khế kinh tương ưng, Luật, Pháp, tương ưng thì hãy thọ trì. Nếu chẳng cùng Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm tương ưng, hãy đáp người ấy rằng: 'Này Hiền giả nên biết! Ðây chẳng phải lời Như Lai nói. Lời Hiền giả nói chẳng phải gốc của chánh kinh. Vì sao thế? Nay tôi thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm đều không tương ưng với lời Hiền giả'.

Vì không tương ứng, nên hỏi giới hạnh. Nếu không cùng giới hạnh tương ưng, hãy bảo người ấy: 'Ðây không phải là tạng của Như Lai'. Và các Thầy nên đuổi người ấy đi. Ðây gọi là căn bản nghĩa lớn của quảng diễn đầu tiên. Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Nam đến nói: 'Tôi hay tụng kinh, trì pháp, vâng hành giới cấm, học rộng nghe nhiều'; thì dù cho Tỳ-kheo ấy có nói gì, các Thầy chẳng nên thừa nhận, chẳng nên tin hết. Hãy giữ Tỳ-kheo ấy để cùng luận nghị. Ngay cho Tỳ-kheo ấy có nói gì, nếu không cùng với nghĩa tương ưng, hãy đáp người ấy rằng: 'Ðây là nghĩa thuyết, chẳng phải chánh kinh bổn'.

Bấy giờ nên giữ nghĩa ấy chớ nhận kinh bổn. Vì sao thế? Vì nghĩa là nguồn để hiểu (giải) kinh. Ðó là căn bản nghĩa lớn của quảng diễn thứ hai.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Tây lại, tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới, học rộng nghe nhiều; thì các Thầy hãy hướng Tỳ-kheo ấy thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm. Nhưng Tỳ-kheo ấy chính giải vị chẳng giải nghĩa, hãy bảo Tỳ-kheo ấy rằng: 'Chúng tôi không rõ lời này có phải của Như Lai nói hay không!'. Ngay lúc thuyết Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, giải vị, không giải nghĩa; tuy nghe Tỳ-kheo ấy nói, các Thầy cũng chẳng nên khen lành, cũng chẳng nên nói ác. Lại đem giới hạnh mà hỏi. Nều cùng tương ưng, hãy tương ưng, còn nghĩa chẳng thể rõ. Ðó là nghĩa của quảng diễn thứ ba.

Lại nữa Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo từ phương Bắc đến, tụng kinh, trì pháp, vâng hành cấm giới (nói): 'Chư Hiền có nghi nan, liền nên hỏi nghĩa, tôi sẽ nói cho các Thầy'; thì Tỳ-kheo ấy có nói gì, các Thầy chẳng nên thừa nhận, chẳng nên phúng tụng. Nhưng hãy hướng Tỳ-kheo ấy hỏi Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm và Giới. Nếu cùng tương ứng, thì các Thầy nên hỏi nghĩa. Nếu lại cùng nghĩa tương ưng, thì nên khen ngợi Tỳ-kheo ấy: 'Lành thay! Lành thay! Hiền giả! Ðây thật là lời Như Lai thuyết nghĩa, không lầm lẫn, đều tương ưng với Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm và Giới'.

Hãy dùng pháp cúng dường, phụng sự Tỳ-kheo ấy. Vì sao thế? Vì Như Lai cung kính pháp vậy. Nếu có người cung kính pháp, tức cung kính Ta; ai đã quán pháp này là đã quán Ta. Ðã có pháp thì có Ta. Ðã có pháp thì có Tỳ-kheo Tăng. Có pháp thì có bốn bộ chúng. Có pháp thì có bốn giai cấp ở đời. Vì sao thế? Do có pháp ở đời, trong Hiền kiếp có Ðại Oai Vương ra đời, từ đây về sau liền có bốn giai cấp ở đời.

Nếu có pháp ở đời thì có bốn dòng họ ở đời: Sát-lợi, Bà-la-môn, thợ thuyền và dòng cư sĩ. Nếu pháp có ở đời thì có ngôi Chuyển luân Thánh vưong chẳng dứt. Nếu pháp có ở đời thì có dòng Tứ thiên vương, Ðâu-suất thiên, Diễm thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên liền có ở đời. Nếu pháp có ở đời thì có trời Dục giới, trời Sắc giới, trời Vô sắc giới ở tại thế gian. Nếu pháp có ở đời thì có quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Bích chi Phật, Phật thừa liền hiện ở đời. Thế nên, Tỳ-kheo, hãy khéo cung kính đối với pháp.

Hãy nên tùy thời cúng dường các thứ cần dùng cho Tỳ-kheo ấy. Hãy bảo Tỳ-kheo ấy rằng: 'Lành thay! Lành thay! Như lời Ông nói. Những lời hôm nay thật là lời Như Lai nói'.

Tỳ-kheo! Ðó là bốn nghĩa được quảng diễn lớn này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy để tâm hành bốn việc này chớ có sơ sót. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc, sáng sớm, tụ tập bốn binh chủng, cỡi xe vũ bảo đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn hỏi vua:

- Ðại vương từ đâu đến mà bụi bặm lấm đầy người như thế? Tụ tập bốn binh chủng có việc gì?

Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

- Nay, nước ta có giặc lớn nổi lên. Nửa đêm hôm qua, con dấy binh bắt được. Thân thể mệt mỏi, con muốn trở về cung, nhưng giữa đường, con lại nghĩ: 'Ta nên đến chỗ Như Lai trước rồi sau hãy vào cung'. Con do việc này mà ngủ nghỉ không yên. Nay vì có công lao dẹp giặc xong, vui mừng hớn hở không kềm được, nên đến lễ bái thăm hỏi Như Lai. Nếu hôm qua con không dấy binh thì không bắt được giặc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo:

- Ðúng vậy, Ðại vương! Như lời vua nói. Vua nên biết rằng: Có bốn việc trước khổ mà sau vui. Thế nào là bốn? Sớm mai dậy sớm, trước khổ sau vui. Nếu dùng dầu bơ, trước khổ sau vui. Nếu lúc uống thuốc, trước khổ sau vui. Gia nghiệp, cưới gả tốt đẹp, trước khổ sau vui. Này Ðại vương! Ðó là có bốn việc này trước khổ mà sau vui.

Vua Ba-tư-nặc bạch Thế Tôn:

- Thế Tôn nói thật đúng lẽ. Có bốn (gốc của) việc này trước khổ sau vui. Vì sao thế? Như hôm nay, con xem bốn việc này như xem châu trong tay, đều là nghĩa trước khổ mà sau vui.

Bấy giờ, Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho vua Ba-tư-nặc, khiến lòng vui hoan hỉ. Vua nghe pháp xong, bạch Thế Tôn:

- Việc nước bề bộn, con muốn trở về cung.

Thế Tôn bảo:

- Vua nên biết đúng lúc.

Vua Ba-tư-nặc bèn từ chỗ ngồi đứng lên, cúi lạy chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi lui đi. Vua đi chưa lâu, Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:

- Nay có bốn việc trước khổ sau vui. Thế nào là bốn? Tu tập Phạm hạnh, trước khổ sau vui. Tụng tập kinh văn, trước khổ sau vui. Tọa Thiền, niệm định, trước khổ sau vui. Ðếm hơi thở ra vào, bốn việc này, trước khổ sau vui. Nếu có Tỳ-kheo hành pháp trước khổ sau vui này thì sẽ hẳn xứng đáng được quả báo vui của Sa-môn. Thế nào là bốn?

Tỳ-kheo siêng hành pháp này, không muốn pháp ác, nhớ giữ hỷ an, tâm dạo chơi ở Sơ thiền. Ðó là được điều vui đầu tiên của Sa-môn.

Lại nữa, có giác, có quán, dừng bên trong có tâm hỷ, chuyên ròng một lòng, không giác không quán niệm giữ hỷ an, đạo ở Nhị thiền. Ðó là được điều vui thứ hai của Sa-môn.

Lại nữa, vô niệm, dạo tâm ở xả (hộ), hằng tự giác tri, biết thân có lạc, chỗ các Hiền thánh hy vọng, bỏ niệm lạc, dạo tâm ở Tam thiền. Ðó là được điều vui thứ ba của Sa-môn.

Lại nữa, khổ vui đã dứt, trước không có hoạn lo lắng, không khổ, không vui, xả niệm không thanh tịnh, đạo tâmTứ thiền. Ðó là có bốn điều vui này của Sa-môn.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo hành trước khổ, sau được quả báo bốn điều vui của Sa-môn này, dứt ba lưới kết, thành tựu Tu-đà-hoàn, không lui sụt pháp, ắt sẽ đến diệt độ.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu dứt ba kết này, dâm nộ si nhạt mỏng, thành tựu Tu-đà-hàm, trở lại đời này, ắt dứt hết mé khổ.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo đoạn năm hạ phần kết, thành tựu A-na-hàm, ở đó Bát-niết-bàn, không đến cõi này nữa.

Lại nữa, Tỳ-kheo! Nếu có Tỳ-kheo hữu lậu đã hết, thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp thân tác chứng mà tự du hí, 'Sanh tử đã đứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh'; như thật mà biết. Ðó là, Tỳ-kheo ấy tu pháp trước khổ này, sau được bốn quả vui của Sa-môn. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện thành tựu pháp trước khổ mà sau vui này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có bốn loại người xuất hiện ở đời. Thế nào là bốn? Có Sa-môn tợ như hoa hoàng lam, có Sa-môn tợ hoa phân-đà-lợi, có Sa-môn tợ như nhu nhuyến và có Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến.

Thế nào gọi là Sa-môn tợ hoa hoàng lam? Hoặc có một người dứt ba kiết sử, thành Tu-đà-hoàn, chẳng thối chuyển pháp ắt đến Niết-bàn, chậm nhất là trải quả bảy phen sanh tử. Hoặc lại làm bậc hướng A-na-hàm ví như hoa hoàng lam sáng búp chiều nở. Tỳ-kheo này cũng thế, ba kiết sử dứt sạch thành Tu-đà-hoàn, chẳng thối chuyển pháp ắt đến Niết-bàn, chậm nhất là qua bảy lần sanh tử, nếu cầu phương tiện có ý dũng mãnh làm bậc hướng A-na-hàm liền thành đạo tích. Ðó gọi là Sa-môn như hoa hoàng lam.

Thế nào gọi là Sa-môn hoa phân-đà-lợi? Hoặc có một người dứt ba kiết sử, dâm nộ si nhạt mỏng, thành Tư-đà-hàm, trở lại cõi đời này dứt hết mé khổ. Nếu người hơi chậm thì đời sau trở lại cõi này dứt hết mé khổ. Còn nếu dũng mãnh thì ngay trong đây dứt hết mé khổ. Ví như hoa phân-đà-lợi sáng sớm nở hoa, xế chiều khô héo. Ðó là Sa-môn như hoa phân-đà-lợi.

Thế nào là Sa-môn nhu nhuyến? Hoặc có một người đoạn năm hạ phần kết (sử) thành A-na-hàm, liền ở nơi ấy Bát-niết-bàn, chẳng trở lại cõi này. Ðó là Sa-môn nhu nhuyến.

Thế nào là Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến? Hoặc có một người dứt sạch hữu lậu, thành tựu vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ở trong hiện pháp tự thân tác chứng mà tự du hý, 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa', như thật mà biết. Ðó là Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến.

Ðó là, này Tỳ-kheo! Có bốn người này xuất hiện ở đời. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên cầu phương tiện này làm Sa-môn nhu nhuyến trong nhu nhuyến. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tu-đà, Tu-ma-quân,
Tân-đầu, Lộc-ế-thủ,
Lộc Ðầu, quảng diễn nghĩa,
Hậu lạc, nhu nhuyến kinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10669)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10105)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12269)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15250)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14213)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12002)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15189)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11885)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11098)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10509)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16417)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13024)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11726)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13408)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11868)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11523)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12664)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12783)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9765)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11056)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8993)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12093)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12939)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10216)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12092)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16514)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14149)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19534)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24416)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10590)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant