Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

42-1. Phẩm Bát nạn (1)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10323)
42-1. Phẩm Bát nạn (1)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3
XXXXII.1. Phẩm Bát nạn (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở một nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Người phàm phu không nghe, không biết thời tiết thuyết pháp. Tỳ-kheo nên biết! Có tám thời không được nghe pháp, người không được tu hành. Thế nào là tám?

Nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi được đến Niết-bàn. là việc làm của Như Lai, nhưng chúng sanh này ở trong địa ngục, không nghe, không thấy. Ðó là nạn đầu tiên.

Lại nếu lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, mà chúng sanh này ở trong loài súc sanh không nghe, không thấy. Ðó là nạn thứ hai.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi, nhưng chúng sanh này ở trong ngạ quỷ, không nghe, không thấy. Ðấy là nạn thứ ba.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi. Nhưng chúng sanh này sống ở bên địa, phỉ báng Hiền Thánh, tạo các tà nghiệp. Ðó là nạn thứ năm.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi đến được Niết-bàn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, nhưng sáu căn không đầy đủ, lại cũng không phân biệt được pháp thiện ác. Ðó là nạn thứ sáu.

Lại nữa, lúc Như Lai xuất hiện ở đời, diễn nói giáo pháp rộng rãi đến được Niết-bàn, nhưng chúng sanh này tuy sống ở trung tâm của nước, sáu căn đầy đủ không có khuyết tật, mà tâm thức tà kiến; cho rằng người không thí, người không thọ, cũng không có quả báo thiện ác, không đời này, đời sau, cũng không cha mẹ, đời không có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... có thành tựu quả A-la-hán, tự thân chứng được để tự an lạc. Ðó là nạn thứ bảy.

Lại nữa, lúc Như Lai không xuất hiện ở đời, Như Lai cũng không thuyết pháp đưa đến Niết-bàn, tuy chúng sanh này sống ở trung tâm nước, sáu căn đầy đủ, kham nhẫn thọ pháp, thông minh tài cao, nghe pháp hiểu liền, tu hành chánh kiến, biết có vật, có thí, có người thọ, có quả báo thiện ác, có đời này, đời sau, ở đời có Sa-môn, Bà-la-môn v.v... tu chánh kiến chứng được A-la-hán. Ðó là nạn thứ tám, chẳng được tu hành Phạm hạnh. Này Tỳ-kheo, đó gọi là tám nạn chẳng được tu hành Phạm hạnh.

Ở đây, này Tỳ-Kheo! Có một thời tiết cho người tu hành Phạm hạnh. Thế nào là một? Ðó là lúc Như Lai xuất hiện ở đời, rộng nói giáo pháp được đến Niết-bàn, và người này sanh ở trung tâm của nước, thế trí biện thông, thấy vật đều rõ biết, tu thành chánh kiến, cũng hay phân biệt các pháp thiện ác, biết có đời này, đời sau, đời có bậc Sa-môn, Bà-la-môn tu chánh kiến chứng được A-la-hán. Ðó là người Phạm hạnh tu hành một pháp được Niết-bàn.

Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ:

Tám nạn không một loại
Khiến người không được đạo
Như nay hiện ở trước
Thế gian không thể gặp
Cũng nên học Chánh pháp
Cũng chớ mất chỗ này
Nhớ về lại quá khứ
Ðã sanh trong địa ngục
Ở đây đoạn vô dục
Tư duy nơi Chánh pháp
Còn mãi ở thế gian
Mà không lúc đoạn diệt.
Ở đây đoạn vô dục,
Tư duy nơi Chánh pháp
Ðoạn hẳn nguồn sanh tử
Còn mãi ở thế gian
Ðã được mang thân người
Phân biệt pháp chánh chân
Những người chưa đắc quả
Ắt dạo nơi tám nạn.
Nay nói có tám nạn,
Yếu hạnh của Phật pháp
Một nạn vẫn còn quá
Như bộng cây mặt biển
Tuy nên lìa một nạn
Mới có được lý này
Nếu lìa một Tứ đế
Là lìa hẳn chánh đạo
Thế nên hãy chuyên tâm
Tư duy về diệu lý
Chí thành nghe Chánh pháp
Liền được chỗ vô vi.

Thế nên Tỳ-kheo! Hãy cầu phương tiện xa lìa nơi tám nạn, chớ mong ở đó. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có tám địa ngục lớn. Thế nào là tám? Ðịa ngục Sống Lại; địa ngục Dây Ðen; địa ngục Ðẳng Hại; địa ngục Gào Khóc; địa ngục Gào Khóc Lớn; địa ngục A-Tỳ; địa ngục Nóng; địa ngục Nóng Lớn.

Như thế, này các Tỳ-kheo! Có tám đại địa ngục.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Sống Lại và Dây Ðen
Ðẳng Hại, hai Gào Khóc
Ngục A-Tỳ ngũ nghịch
Ðịa ngục Nóng, Nóng Lớn
Ðây gọi tám địa ngục
Trong ấy không thể ở
Ðều do gốc ác hạnh Mười sáu lớp vách kín
Và trên địa ngục sắt kia
Lửa dữ, hằng thiêu đốt
Khắp trong một do tuần
Lửa hừng rất mạnh mẽ
Bốn thành, bốn lớp cửa
Trong đó rất bằng phẳng
Lại lấy sắt làm thành
Nắp sắt che trên đó.

Ðây do nhân duyên tội báo của chúng sanh, khiến cho chúng sanh kia thọ khổ vô lượng, máu thịt tiêu hết chỉ còn lại xương.

Vì những gì mà gọi là địa ngụa Sống Lại? Có những chúng sanh thân hình thẳng đơ không thể dao động, bị khổ bức bách mà không thể di chuyển, thân hình không còn máu thịt. Khi ấy họ tự bảo nhau: 'Chúng sanh sống lại, sống lại'. Lúc đó, chúng sanh ấy liền tự sống lại. Do nhân duyên này nên gọi là địa ngục Sống Lại.

Lại vì nhân đâu lại gọi là địa ngục Dây Ðen? Chúng sanh kia hình thể gân mạch đều hóa thành dây để cứa vào thân, nên gọi là địa ngục Dây Ðen.

Lại do nguyên nhân gì mà lại gọi là địa ngục Ðẳng Hại? Ở đây, chúng sanh kia tụ tập một nơi, đầu bị chặt rồi mọc lại. Do nhân duyên này gọi là địa ngục Ðẳng Hại.

Lại do nhân duyên gì gọi là địa ngục Gào Khóc? Chúng sanh kia gốc lành đoạn dứt chẳng còn sót mảy lông tóc, ở trong địa ngục kia chịu khổ não vô lượng, trong đó kêu oán, tiếng gào không dứt. Do nhân duyên này gọi là địa ngục Gào Khóc.

Lại nữa, do nhân duyên gì gọi là địa ngục Gào Khóc Lớn? Chúng sanh trong địa ngục ấy chịu đau khổ vô lượng, không thể tính kể. Trong đó, họ hô hoán, đấm ngực, tự đánh mình và đồng thanh gào thét. Do nhân duyên này gọi là địa ngục Gào Khóc Lớn.

Lại do nhân duyên gì gọi là địa ngục A-tỳ? Những chúng sanh sát hại cha mẹ, phá hoại tháp Phật, làm rối loạn chúng Tăng, học tập tà kiến điên đảo, tương ưng với tà kiến, tất cả không thể chữa trị. Vì thế nên gọi là địa ngục A-tỳ.

Lại do nhân duyên gì mà gọi là địa ngục Nóng? Những chúng sanh ở trong địa ngục ấy, thân thể bốc khói, thảy đều tan nát, nên gọi là địa ngục Nóng.

Lại do nhân duyên gì gọi là địa ngục Nóng Lớn? Chúng sanh ở trong địa ngục này, đều không thấy sót lại chút gì của tội nhân. Nên gọi là địa ngục Nóng Lớn.

Thế là, này Tỳ-kheo! Do nhân duyên này gọi là tám địa ngục lớn. Mỗi địa ngục đều có mười sáu địa ngục nhỏ tên là địa ngục Ưu-bát, địa ngục Bát-đầu, địa ngục Câu-mâu-đầu, địa ngục Phân-đà-lợi, địa ngục Vị-tằng-Hữu, địa ngục Vĩnh-Vô, địa ngục Ngu Hoặc, địa ngục Súc-Tụ, địa ngục Ðao-Sơn, địa ngục Thang Hỏa, địa ngục Hỏa-sơn, địa ngục Khôi-Hà, địa ngục Kinh Cức, địa ngục Phức Thi, địa ngục Kiến Thọ, địa ngục Nhiệt Thiết Hoàn.

Như vậy, mười sáu địa ngục nhỏ này không thể xưng lượng, khiến chúng sanh kia sanh trong địa ngục. Hoặc có chúng sanh hủy bỏ chánh kiến phỉ bángxa lìa Chánh pháp, sau khi mạng chung đều sanh trong địa ngục Sống Lại (Hoàn Hoạt)

Nếu có chúng sanh ưu thích sát sanh liền sanh trong địa ngục Dây Ðen.

Nếu có chúng sanh mổ giết Trâu dê, và nhiều loại khác, sau khi mạng chung sanh trong địa ngục Ðẳng Hại.

Nếu có chúng sanh không cho mà lấy trộm vật của người khác, liền sanh trong địa ngục Gào Khóc.

Nếu có chúng sanh thường ưa dâm dật, lại thêm nói dối, sau khi mạng chung liền sanh trong địa ngục Gào Khóc Lớn.

Nếu có chúng sanh sát hại cha mẹ, phá hoại chùa chiền, làm rối loạn Thánh chúng, phỉ báng Thánh nhân, học tập tà kiến điên đảo; người ấy sau khi mạng chung sanh trong địa ngục A-tỳ.

Nếu có chúng sanh nghe lời nói ở chỗ này đem truyền đến chỗ kia, nếu ở kia lại truyền đến chỗ này, tìm phương tiện xấu của người; người ấy sau khi mạng chung sanh trong địa ngục Nóng.

Nếu có chúng sanh gây tranh đấu rối loạn đôi bên, tham đắm vật của người, dấy khởi lẫn tiếc, tật đố, ôm lòng do dự; người ấy sau khi mạng chung sanh trong địa ngục Nóng Lớn.

Nếu có chúng sanh tạo ác nghiệp, sau khi mạng chung sanh trong mười sáu địa ngục nhỏ. Khi ấy ngục tốt hành hạ chúng sanh kia đau khổ khó lường, hoặc chặt tay, hoặc chặt chân, hoặc chặt tay chân, học cắt mũi, hoặc xẻo tai, hoặc cắt tai, mũi, hoặc lấy cây đè lên, hoặc lấy cỏ nhét vào bụng, hoặc treo tóc ngược, hoặc lột da, khoét thịt, hoặc chẻ làm hai, hoặc may kín lại, hoặc chặt rời năm phần, hoặc chặt lửa đốt, hoặc rưới nước sắt nóng lên, hoặc xé ra làm năm, hoặc kéo thân dài ra, hoặc dùng búa bén chặt đầu, giây lát sống lại. Cần cho tội nghiệp của người trong ngục trả xong, sau mới ra khỏi.

Có lúc ngục tốt bắt chúng sanh kia, lấy chày lớn đập nát thân thể, hoặc tuốt gân xương, lại rượt đuổi leo xuống. Có lúc có loài chim mỏ sắt lại mổ ăn, lại trói chặt năm chi không cho cử động, ném vào chảo nước sôi lớn, thêm dùng chĩa ba bằng sắt làm hại thân thể, gió thổi qua thân, sống lại như cũ. Có lúc ngục tốt lại bắt chúng sanh leo núi đao, núi lửa, không cho ngừng nghỉ. Trong đó chịu khổ không thể tính kể. Cần cho tội nghiệp đã tạo của người ấy hết rồi, sau mới ra.

Có lúc tội nhân không kham chịu sự thống khổ này, lại muốn vào địa ngục tro nóng chịu khổ vô lượng. Lại từ trong đó ra, vào lại địa ngục chẻ ngược, trong đó gió thổi đau đớn không thể xiết. 

Lại từ trong đó ra, vào địa ngục phẩn nóng. Lúc ấy trong địa ngục phẩn nóng, có các loài trùng li ti rút rỉa thịt xương. Có lúc chúng sanh không chịu nổi thống khổ, lại dời vào địa ngục cây kiếm, thân thể tan nát, đau đớn không chịu được. Có lúc ngục tốt hỏi chúng sanh ấy rằng:

- 'Các tội nhân từ đâu đến? '

Khi ấy tội nhân đáp:

- 'Chúng tôi cũng không biết từ đâu đến'

- 'Rồi đi đâu?

- 'Cũng không biết sẽ đi đâu

- 'Bây giờ muốn những gì?

- 'Chúng tôi rất đói khát'

Khi ấy ngục tốt lấy hoàn sắt nóng đổ vào miệng tội nhân ấy, đốt nát thân thể đau đớn không chịu nổi. Cần cho trả hết tội cũ rồi mới chết. Lúc ấy tội nhân lui tới trải qua bao nhiêu địa ngục như vậy, ở trong đó chịu khổ ngàn vạn năm, sau mới ra khỏi.

Tỳ-kheo nên biết! Vua Diêm-la bèn khởi nghĩ thế này: 'Chúng sanh trong các cõi, thân miệng ý làm ác, sẽ chịu hết những tội như thế. Chúng sanh trong các cõi, thân miệng ý làm lành, những người như thế sẽ sanh cõi trời Quang Âm'.

Lúc ấy, Thế Tôn bèn nói kệ:

Người ngu thường vui vẻ
Như trời Quang Âm kia
Người trí thường sợ sệt
Cũng như ở địa ngục.

Lúc ấy tội nhân nghe vủa Diêm-la nói giáo lệnh này: 'Ở đây đến lúc nào diệt hết các tội đã tạo thì chết rồi được thọ thân người, sanh vào trung tâm của nước, gặp Thiện tri thức, cũng gặp cha mẹ kính tin Phật pháp, ở trong chúng của Như Lai xuất gia theo học đạo, nơi hiện pháp dứt sạch hữu lậu thành vô lậu.

Nay ta bảo một lần nữa. Ông cần để ý, xa lìa tám nạn được sanh chốn trung tâm, cùng gặp Thiện tri thức, được tu Phạm hạnh, đạt kết quả của bổn nguyện, không mất lời thệ cũ'

Cho nên, này Tỳ-kheo! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn xa lìa tám địa ngục lớm và mười sáu địa ngục nhỏ, thì nên tìm phương tiện tu Tám chánh đạo. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Tỳ-xá-lỵ trong vườn Nại-kỳ (vườn Xoài Ambapàli) cùng với đại chúng Tỳ-kheo năm trăm người câu hội, dần dần đi du hóa nhân gian.

Khi ấy, Thế Tôn ngoái nhìn thành Tỳ-xá-ly, giây lâu bèn nói kệ này:

Nay nhìn Tỳ-xá-ly,
Rồi sau không nhìn lại
Cũng lại không bao lâu
Sẽ từ biệt nơi này.

Lúc ấy, nhân dân trong thành Tỳ-xá-ly nghe nói kệ này, thảy đều lo buồn, đi theo sau Thế Tôn ai nấy rơi lệ tự bảo nhau: 'Không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ, thế gian sẽ mất ánh sáng'.

Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi! Các Người chớ buồn lo, vật đáng hoại diệt mà muốn không hoại diệt thì trọn không có lý. Trước đây, Ta đem bốn việc dạy bảo do đây được tác chứng. Và Ta cũng ở trong bốn độ chúng, dạy bảo bốn việc này. Thế nào là bốn? Tất cả hành vô thường, là pháp thứ nhất. Tất cả hành khổ là pháp thứ hai. Tất cả hành vô ngã là pháp thứ ba. Niết-bàn là diệt tận, là pháp thứ tư. Như thế, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Các Người nên biết bốn pháp căn bổn, vì khắp tất cả chúng sanh nói bày nghĩa ấy.

Bấy giờ, Thế Tôn muốn khiến cho nhân dân thành Tỳ-xá-ly trở về, liền hóa hiện một hầm lớn, Thế Tôn đưa chúng Tỳ-kheo qua bờ bên kia, dân chúng trong nước ở bờ bên này. Lúc ấy, Thế Tôn ném cái bát của Ngài lên hư không cho dân chúng thành ấy, lại bảo:

- Các Người khéo cúng dường bát này, cũng nên cúng dường bậc Pháp sư tài cao được phước vô lượng lâu dài.

Lúc ấy, Thế Tôn cho họ chiếc bát rồi, liền đi đến nước Câu-thi-na-kiệt. Lúc ấy, nhân dân nước Câu-thi-na-kiệt có hơn năm trăm lực sĩ nhóm tại một chỗ bàn luận thế này:

- Chúng ta cùng làm một việc kỳ lạ để sau khi chết danh tiếng truyền lâu, con cháu cùng truyền tụng rằng: 'Ngày xưa, các lực sĩ thành Câu-thi-na-kiệt thế lực khó bì.'

Lát sau, họ lại khởi niệm 'Nên làm việc gì? '

Bấy giờ, cách thành Câu-thi-na-kiệt không xa có tảng đá vuông lớn, dài một trăm hai mươi bộ, rộng sáu mươi bộ. Họ nói: 'chúng ta sẽ cùng nhau dựng nó lên'. Họ đem hết sức để dựng tảng đá mà không nhúc nhích lay chuyển, huống gì dựng lên. Lúc ấy, Thế Tôn đi đến chỗ họ, hỏi rằng:

- Các Ðồng tử muốn làm gì?

Các đồng tử bạch Phật:

- Trước đây, chúng con bàn luận như thế này, muốn dời tảng đá này để cho đời đời khen truyền danh tiếng của mình. Ra sức từ đó đến nay, đã bảy ngày, song không thể khiến tảng đá này di chuyển.

Phật bảo các đồng tử:

- Có muốn Như Lai dựng tảng đá này chăng?

Các đồng tử đáp:

- Nay chính phải thời, cúi xin Thế Tôn sắp đặt tảng đá này.

Lúc ấy, Thế Tôn dùng bàn tay nâng tảng đá lên, đưa qua bàn tay trái, ném lên hư không, tảng đá văng lên đến trời Phạm thiên. Các lực sĩ thành Câu-thi-na-kiệt không thấy tảng đá, bèn bạch Phật:

- Tảng đá ấy nay ở chỗ nào? Chúng con đều không thấy.

Thế Tôn bảo:

- Tảng đá này hiện ở trên trời Phạm thiên.

Các đồng tử đều bạch Phật:

- Khi nào nó rơi xuống cõi Diêm phù.

Thế Tôn bảo:

- Nay Ta sẽ dẫn thí dụ, người trí do thí dụ tự hiểu. Giả sử lại có người lên đến Phạm thiên, nâng tảng đá ấy ném xuống Diêm phù, mười hai năm mới đến. Song nay do oai thần của Như Lai, nó sẽ rơi xuống ngay.

Ðức Phật nói xong, tảng đá ấy lập tức rơi xuống, trong hư không mưa trăm ngàn thứ hoa trời. Hơn năm trăm đồng tử ấy xa thấy đá rơi xuống, bèn chạy tán loạn không dám đứng chỗ cũ, Phật bảo họ:

- Ðừng sợ, Như Lai tự biết thời.

Bấy giờ Thế Tôn đưa tay trái tiếp tảng đá, đặt qua bàn tay mặt và dựng nó lên. Lúc ấy, Tam thiên đại thiên thế giới rung động sáu cách. Các cõi trời thần diệu trong hư không, rải các thứ hoa sen Ưu-bát. Năm trăm đồng tử đều khen ngợi:

- Thật là chưa từng có, rất kỳ lạ, rất đặc biệt! Oai thần của Như Lai thật không thể sánh kịp. Tảng đá này dài một trăm hai mươi bộ, rộng sáu mươi bộ, mà Thế Tôn chỉ dùng một tay sắp xếp cho nó.

Lúc ấy, năm trăm đồng tử đều bạch Phật:

- Như Lai dùng thần lựcdi chuyển tảng đá này? Là dùng sức thần túc, hay dùng sức trí tuệ xếp đặt tảng đá này?

Phật bảo các đồng tử:

- Nay không dùng sức thần túc, cũng không dùng sức trí tuệ. Nay Ta chỉ dùng sức của cha mẹ mà sắp xếp tảng đá này.

Các đồng tử đều bạch Phật:

- Không biết Như Lai dùng sức của cha mẹ là như thế nào?

Phật bảo:

- Nay Ta sẽ dẫn thí dụ cho các Ðồng tử. Người trí do thí dụ tự hiểu. Này các Người! Nên biết sức của mười con lạc đà không bằng sức một con voi thường. Lại, sức của mười lạc đà và một voi thường, không bằng sức của một con voi Ca-la-lặc. Sức của mười lạc đà và một voi thường cùng sức của voi Ca-la-lặc, không bằng sức một con voi Cưu-đà-điên. Giả sử sức của mười lạc đà và một voi thường cho đến cộng với sức một voi Cưu-đà-điên không bằng sức một voi Bà-ma-na. Lại tính sức của voi này, không bằng sức một voi Ca-ni-lưu. Lại tính hết sức của các voi trên, không bằng sức của một voi Ưu-bát. Lại tính hết sức của bao nhiêu voi, không bằng sức của một voi Bát-đầu-ma. Lại tính kể so sánh sức của bao nhiêu voi, không bằng sức một voi Câu-ni-đà. Lại gom hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một voi Phân-đà-lợi. Lại gom hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một Hương tượng. Lại gồm hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một Ma-kha-na-cực. Lại gồm hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một Na-la-diên. Lại gồm hết tính kể so sánh, không bằng sức của một Chuyển luân Thánh vương. Lại gồm hết tính kể so sánh, không bằng sức của một A-duy-việt-trí (Bồ-tát bất thối). Lại gồm hết để tính kể so sánh, không bằng sức của một Bồ-tát bổ xứ. Lại gồm hết để so sánh, không bằng sức của một Bồ-tát ngồi dưới cội đạo thọ. Lại đem so sánh, không bằng sức của một đức Như Lai do thi thể của cha mẹ. Nay Ta dùng sức của cha mẹ để sắp xếp tảng đá này.

Bấy giờ, năm trăm đồng tử lại bạch Phật:

- Sức thần túc của Như Lai, là như thế nào?

Ðức Phật bảo:

- Xưa, Ta có đệ tử tên Mục-kiền liên, là bậc nhất trong hàng thần túc. Bấy giờ, Ta và Mục-kiền-liên du hóa tại làng vườn trúc Tỳ-la-nhược. Lúc ấy, cõi nước nguy nan, nhân dân cấu xé lẫn nhau, xương phơi đầy đường. Người xuất gia khất thực khó khăn, Thánh chúng gầy ốm, khí lực hư hao. Lại nữa, nhân dân trong làng đều đói khổ không nơi nương cậy. Lúc ấy, Ðại Mục-kiền-liên đến chỗ ta bạch rằng:

- 'Nay thôn Tỳ-la-nhược này rất là đói khổ, không nơi khất thực, dân chúng khốn đốn không có đường sanh sống. Con cũng được nghe Như Lai dạy rằng, nay dưới lớp đất tự nhiên màu mỡ, rất là thơm ngon, cúi xin Thế Tôn cho phép lật lớp đất ngon lên trên, khiến cho dân chúng được thức ăn, cũng khiến cho Thánh chúng khí lực sung mãn'.

Ta bảo Mục-liên:

- 'Các loài trùng nhỏ nhít trong đất, Thầy để chỗ nào?'

Mục-liên thưa:

- 'Con sẽ hóa một tay giống lớp đất này, lại dùng một tay lật lớp đất màu mỡ lên, khiến loài trùng nhỏ nhít đều an ổn nơi chỗ của mình'.

Lúc ấy Ta bảo Mục-liên:

- 'Tân thầy nghĩ gì mà muốn đảo ngược đất này?'

Mục-liên thưa:

- 'Nay con đảo ngược đất này, như lực sĩ lật một chiếc lá, không khó khăn gì?'

Ta lại bảo Mục-liên:

- 'Thôi, thôi, Mục-liên! Không cần lật ngược đất màu mỡ này. Vì sao? Chúng sanh thấy chuyện này sẽ kinh sợ, lông áo đều dựng lên, đền chùa của chư Phật sẽ bị hủy hoại'.

Lúc ấy, Mục-liên đến trước Phật bạch:

- 'Cúi xin Thế Tôn cho phép Thánh chúng đi sang châu Uất-đơn-việt khất thực'.

Phật bảo Mục-liên:

- 'Hạng người không có thần túc trong đại chúng đây, làm sao sang bên ấy khất thực?'.

Mục-liên bạch Phật:

-' Người không có thần túc, con sẽ đưa sang cõi ấy'.

Phật bảo Mục-liên:

- 'Thôi, thôi, Mục-liên! Không cần Thánh chúng sang bên kia khất thực. Vì sao? Ðời sau cũng sẽ đói khổ như thế, khất thực khó được, người không nhan sắc. Bấy giờ hàng Bà-la-môn trưởng giả sẽ bảo các Tỳ-kheo rằng: 'Các Vị sao không đến Châu Uất-đơn-việt khất thực? Ngày xưa đệ tử dòng họ Thích có thần túc lớn, gặp nạn đói khổ này đều cùng đi sang Châu Uất-đơn-việt khất thực, để tự cứu mình. Ngày nay đệ tử của Thích-Ca không có thần túc, cũng không có hạnh Sa môn oai thần'. Họ sẽ khinh dể Tỳ-kheo, khiến hàng trưởng giả cư sĩ kia ôm lòng kiêu mạn chịu tội vô lượng. Mục-liên nên biết, do nhân duyên này, chúng Tỳ-kheo không nên sang hết bên ấy khất thực.

Các Ðồng tử nên biết! Thần túc của Mục-liên, đức như thế, tính kể sức thần túc của Mục-liên trùm khắp Tam thiên đại thiên cõi nước, không nơi nào không có, hay thiếu sót nhưng không bằng sức thần túc của Như Lai là sức hơn trăm lần, ngàn lần, ức vạn lần, không thể dùng thí dụ để so sánh thần túc của Như Lai, đức ấy không thể lường.

Các đồng tử bạch Phật:

- Sức trí tuệ của Như Lai như thế nào?

Ðức Phật bảo

- Xưa, Ta cũng có đệ tử tên Xá-ợi-phất, bậc nhất trong hàng trí tuệ. Như nước biển lớn sâu rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần chìm trong biển cũng như thế. Cõi đất Diêm-phù, chiều Nam Bắc hai vạn một ngàn do-tuần, chiều Ðông Tây bảy ngàn do-tuần. Nay lấy việc này để so sánh. Dùng nước bốn biển làm mực, dùng núi Tu-di làm giấy, bao nhiêu cây cỏ hiện tại của Diêm-phù làm bút, lại khiến tất cả người trong Tam thiên đại thiên cõi nước đều viết, để tả cho hết trí tuệ của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Nhưng này các Ðồng tử! Nên biết nước mực bốn biển lớn và người cầm bút sẽ dần dần mạng chung, cũng không thể khiến cho trí tuệ của Tỳ-kheo Xá-lợi phất cạn hết. Như thế, các đồng tử, hàng trí tuệ bậc nhất trong số đệ tử Ta, không ai hơn Xá-lợi-phất. Tính sức trí tuệ của Tỳ-kheo Xá-lợi-phất trùm khắp Tam đại thiên cõi nước, không sót không trống chỗ nào, muốn so sánh với sức trí tuệ của Như LAi, trăm lần, ngàn lần, ức vạn lần không thể dùng thí dụ để so sánh. Sức trí tuệ của Như Lai là như thế.

Lúc ấy, các đồng tử lại bạch Phật:

- Có thế lực nào hơn thế lực này chăng?

Phật đáp:

- Cũng có thế lực này vượt hơn thế lực trên. Ðó là gì? Là thế lực vô thường. Hôm nay vào nửa đêm, tại giữa cây Song thọ, Như Lai sẽ bị sức vô thường đưa đến diệt độ.

Bây giờ, các đồng tử đều rơi lệ, than thở:

- Như Lai diệt độ mau chóng thay! Thế gian mất đi nhãn mục.

Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni Quân-trà-la-hệ-đầu là con gái trưởng giả Bà-la-đà. Tỳ-kheo-ni này bèn khởi ý nghĩ: 'Ta nghe Thế Tôn không bao lâu sẽ diệt độ. Ngày giờ đã hết, nay ta nên đến chỗ Thế Tôn để gần gũi thăm hỏi.'

Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni kia liền ra khỏi thành Tỳ-xá-ly, đến chỗ Thế Tôn, xa thấy Như Lai dẫn chúng Tỳ-kheo và năm trăm đồng tử muốn đến rừng Song thọ. bấy giờ, Tỳ-kheo-ni đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật và bạch:

- Con nghe Thế Tôn sắp diệt độ, không còn trụ thế bao lâu.

Phật đáp :

- Chính vào giữa đêm nay, Như Lai diệt độ.

Khi ấy, Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Nay con xuất gia học đạo, lại không đạt kết quả sở nguyện; Thế Tôn bỏ con mà diệt độ. Cúi xin nói pháp vi diệu cho con để thành tựu sở nguyện.

Phật bảo:

- Này Tỳ-kheo-ni, nên tư duy về nguồn gốc của khổ.

Tỳ-kheo-ni lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, thật khổ ! Bạch Như Lai thật khổ!

Phật hỏi:

- Tỳ-kheo quán những nghĩa gì mà nói khổ?

Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, lo buồn rối loạn khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thương yêu chia lìa khổ. Tóm lại, năm ấm lẫy lừng khổ. Như thế, bạch Thế Tôn, con quán nghĩa này rồi nên nói là khổ.

Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni suy nghĩ nghĩa rồi, liền ngay chỗ ngồi được tam đạt trí (tam minh). Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

- Con không kham thấy Thế Tôn diệt độ, cúi xin cho phép con diệt độ trước.

Khi ấy Thế Tôn im lặng hứa khả.

Tỳ-kheo-ni liền từ chhỗ ngồi đứng dậy, lễ dưới chân Phật, rồi ở trước Phật phi thân lên hhư không, làm mười tám phép biến hóa, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, thân phóng ra khói lửa, ẩn hiện tự do không ngăn ngại, hoặc phóng lửa nước đầy hư không. Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni làm vô số thần biến rồi, liền nơi cảnh giới Niết-bàn vô dưdiệt độ. Tại đó, chính trong ngày Tỳ-kheo-ni ấy diệt độ, có tám vạn Thiên tử được pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Trong hàng Thanh văn của Ta, Tỳ-kheo-ni được trí tuệ nhanh chóng bậc nhất là Tỳ-kheo-ni Quân-trà-la-hệ-đầu.

Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

- Thầy đến giữa Song thọ, trải tòa cho Như Lai, để đầu hướng về phía Bắc.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

A-nan vâng lời Phật dạy, đến khoảng giữa Song thọ trải tòa cho Như Lai, rồi trở lại chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, bạch Phật:

- Ðã trải tòa xong, đầu hướng về phía Bắc, nên biết đúng thời.

Thế Tôn liền đi đến giữa Song thọ, vào tòa đã trải. Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Có nhơn duyên gì khiến Như Lai dạy trải tòa, đầu hướng về phía Bắc?

Phật bảo A-nan:

- Sau khi Ta diệt độ, Phật pháp sẽ ở tại Bắc Thiên Trúc. Do nhân duyên này nên Ta bảo trải tòa hướng về Bắc.

Lúc ấy, Thế Tôn chia ba y. A-nan bạch Phật:

- Do cớ gì, hôm nay Như Lai lại chia ba y?

Bấy giờ, trong phút chốc, từ miệng Thế Tôn phát ra hào quang năm sắc.

Ðức Phật bảo:

- Ta vừa khởi ý nghĩ này: Khi chưa thành đạo, ở địa ngục lâu dài, ăn hoàn sắt nóng, hoặc ăn rau cỏ nuôi thân tứ đại, hoặc làm loài lừa, lạc đà, voi, ngựa, heo, dê, hoặc làm ngạ quỷ hoặc làm thân người chịu thọ thai, hoặc được phước trời ăn vị cam lồ tự nhiên. Nay Ta đã thành Như Lai, do Ngũ căn, Ngũ lực, Bảy giác chi, Tám chánh đạo thành tựu thân Như Lai. Do nhân duyên này nên miệng phát ra hào quang năm sắc vậy.

Lúc ấy, trong phút chốc, từ miệng Phật phóng ra hào quang vi diệu hơn hào quang trước. A-nan bạch Phật:

- Lại do nhân duyên gì khiến Như Lai lại phóng ra hào quang thù thắng hơn trước?

Phật bảo:

- Ta vừa khởi ý nghĩ này: 'Các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ diệt độ, Pháp để lại không tồn tại lâu nơi đời'. Ta lại suy nghĩ thêm: 'Dùng phương tiện gì khiến pháp Ta được tồn tại lâu nơi đời? '. Thân Như Laithân Kim cang, ý Ta muốn nghiền thân này như hạt cải, để lưu bố thế gian, khiến cho thấy được hình tượng Như Lai, sẽ cúng dường nơi đây nhờ nhân duyên phước báo này sẽ sanh trong gia đình bốn chủng tộc, sanh cõi trời Tứ thiên vương, trời Ba mươi ba, trời Diệm ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại. Nhân phước này, họ sẽ sanh vào cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, hoặc lại được đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, Bích-chi-Phật, hoặc thành Phật đạo. Do nhân duyên này nên phát ra hào quang ấy.

Bấy giờ, Thế Tôn đích thân tự xếp y Tăng-già-lê làm bốn, nằm nghiêng hông bên hữu, hai chân xuôi thẳng xếp lên nhau. Lúc ấy, Tôn giả A-nan khóc lóc rơi lệ không thể tự kềm chế, lại tự trách mình: 'Ðã chưa thành đạo, bị kiết sử ràng buộc, mà nay Thế Tôn bỏ ta diệt độ, ta sẽ nương cậy vào ai? '

Lúc ấy, Thế Tôn biết, nên bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo A-nan nay ở đâu?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Tỳ-kheo A-nan nay đang đứng sau chỗ nằm của Như Lai, buồn khóc rơi lệ không thể tự kềm, lại tự trách mình đã không thành đạo, lại không đoạn kiết sử, mà nay Thế Tôn bỏ vào Niết-bàn.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan:

- Thôi, thôi A-nan, đừng buồn lo. Phàm vật ở đời đáng tan hoại, muốn đừng thay đổi, việc ấy không được. Thầy cần ra sức tinh tấn, nhớ nghĩ tu tập Chánh pháp, như thế không bao lâu sẽ chấm dứt mé khổ, thành tựu hạnh vô lậu. Các đức Như Lai Chánh Ðẳng Chánh Giác ở thời quá khứ cũng có thị giả như thế. Giả sử hằng sa chư Phật đời tương lai, cũng sẽ có thị giả như A-nan. Chuyển luân Thánh vương có bốn pháp chưa từng có. Thế nào là bốn? Lúc vua Chuyển luân Thánh vương muốn ra khỏi nước, nhân dân thấy đều vui mừng. Lúc Chuyển luân Thánh vương có lời dạy bảo, ai nghe cũng đều vui mừng. Nghe lời Chuyển luân Thánh vương dạy không chán. Chuyển luân Thánh vương im lặng, giả sử nhân dân thấy vua im lặng cũng lại vui mừng. Tỳ-kheo! Ðó là Chuyển luân Thánh vương có bốn pháp chưa từng có này.

Tỳ-kheo nên biết ! Ngày nay A-nan cũng có bốn pháp chưa từng có. Thế nào là bốn? Giả sử Tỳ-kheo A-nan im lặng vào trong chúng, người nào cũng thấy vui mừng. Giả sử Tỳ-kheo A-nan có nói lời gì, người nghe lời ấy đều cùng hoan hỷ, nếu im lặng cũng lại như thế. Giả sử Tỳ-kheo A-nan vào trong bốn bộ chúng, vào trong chúng Sát-lợi, Bà-la-môn, vào trong chúng quốc vương, cư sĩ, mọi người đều hoan hỷ, khởi tâm cung kính, nhìn A-nan không chán. Giả sử Tỳ-kheo A-nan có nói điều gì, người nghe dạy pháp vâng theo không chán. Ðó là này Tỳ-kheo, bốn việc chưa từng có nầy.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Phải làm thế nào khi gặp người nữ? Bởi vì hiện nay Tỳ-kheo đúng thời đắp y mang bát đi từng nhà khất thực, tạo phước độ chúng sanh.

Phật bảo A-nan:

- Ðừng gặp gỡ họ. Nếu có gặp đừng nói chuyện với họ. Nếu cùng nói chuyện phải giữ tâm chuyên ý nhất.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Ðừng giao thiệp người nữ
Cũng đừng nói chuyện chung
Người có thể xa lìa
Ắt lìa khỏi tám nạn.

A-nan bạch Phật:

- Nên đối xử với Tỳ-kheo Xa-na thế nào?

Thế Tôn dạy:

- Nên dùng pháp Phạm-đàn để trị phạt.

A-nan bạch Phật:

- Thế nào là pháp Phạm-đàn trị phạt?

Thế Tôn dạy:

- Không nên nói chuyện với Tỳ-kheo Xa-na. Cũng chớ nói lành, cũng chớ nói dữ. Còn Tỳ-kheo này cũng không nói gì với các Thầy.

A-nan bạch Phật:

- Nếu không xét kỹ sự việc, ắt phạm tội không nặng ư?

Phật dạy:

- Chỉ không nói chuyện tức là dùng pháp Phạm-đàn trị phạt. Nhưng nếu kẻ ấy không sửa đổi, sẽ đưa ra giữa chúng, mọi người cùng búng tay khiến đuổi ra, không thuyết giới với người ấy, cũng chớ làm việc chung trong pháp hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Muốn cùng oan gia kia,
Mà đáp kẻ oán ấy,
Thường niệm, chớ nói năng,
Ðiều này không có lỗi.

Lúc ấy, nhân dân thành Câu-thi-na-kiệt nghe tin Thế Tôn sẽ diệt độ vào lúc nữa đêm. Nhân dân trong nước đi đến khoảng giữa rừng Song thọ, đến rồi cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.

Dân chúng đồng bạch Phật:

- Nay nghe Như Lai sắp diệt độ, chúng con phải tôn kính thế nào?

Lúc ấy, Thế Tôn ngoái nhìn Tôn giả A-nan. Tôn giả A-nan liền khởi nghĩ: 'Hôm nay thân thể Như Lai mệt nhọc, muốn bảo ta chỉ dạy nghi thức cho họ'. A-nan quỳ gối bên phải xuống đất, chắp tay bạch Phật:

- Nay có hai dòng họ, một tên là Bà-a-đà, thứ hai tên Tu-bạt-đà, nay đến quy y Như LaiThánh chúng. Cúi xin Thế Tôn cho họ làm Ưu-bà-tắc, từ nay về sau không sát sanh, vâng giữ năm giới.

Lúc ấy, Thế Tôn rộng vì họ thuyết pháp, để phát khởi những người còn lại, khiến họ quy y. Lúc ấy, năm trăm người dòng Ma-la nước Câu-thi-na-kiệt đi đến.

Bấy giờ, Phạm chí Tu-bạt từ nước của ông (nước Bà-bà) đi đến nước Câu-thi-na-kiệt, xa thấy năm trăm người đi đến, liền hỏi:

- Các Ông từ đâu đến đây?

Năm trăm người đáp:

- Tu-bạt nên biết, đức Thế Tôn sẽ diệt độ vào hôm nay tại giữa rừng Song thọ.

Tu-bạt liền khởi nghĩ: 'Như Lai ra đời rất khó gặp. Thời gian Như Lai xuất hiện như hoa Ưu-đàm-bát, ức kiếp mới xuất hiện. Nay ta có các điều nghhi ngờ không hiểu các pháp, chỉ có Sa-môn Cù-đàm ấy mới giải đáp điều nghi ngờ của ta. Nay ta có thể đến chỗ Cù-đàm ấy mà hỏi nghĩa này'.

Lúc ấy, Phạm chí Tu-bạt đến rừng Song thọ, đến chỗ Tôn giả A-nan, thưa rằng:

- Tôi nghe Thế Tôn hôm nay sẽ diệt độ, có đúng không?

A-nan đáp:

- Thật có việc ấy.

Tu-bạt thưa:

- Song nay tôi còn có điều nghi ngờ, xin Tôn giả nhận lời, thưa với Thế Tôn rằng: Có người không hiểu lời nói của Lục sư, có thể được nghe Sa-môn Cù-đàm chăng?

A-nan nói:

- Thôi, thôi, Tu-bạt! Chớ quấy nhiễu Như Lai.

Như vậy đến ba lần, Tu-bạt lại nói vớ A-nan:

- Như Lai ra đời thật khó gặp; như hoa Ưu-đàm-bát đúng thời mới xuất hiện. Nay tôi xét thấy Như Lai có thể giải quyết điều nghi ngờ của tôi. Ðiều tôi hỏi không đủ để nói hết, mà nay A-nan không cho tôi đến bạch với Thế Tôn. Lại có nghe Như Lai quán sát không cùng tận, biết trước không cùng tột, mà nay riêng không tiếp tôi.

Lúc ấy, Như Lai dùng Thiên nhĩ xa nghe Tu-bạt nói với A-nan như thế. Thế Tôn bảo A-nan:

- Thôi, thôi A-nan! Chớ ngăn cản Phạm chí Tu-bạt. Vì sao? Ông ấy đến hỏi nghĩa được nhiều lợi ích. Nếu ta thuyết pháp, ông ấy liền được độ thoát.

A-nan bảo Tu-bạt:

- Lành thay, lành thay! Nay Như Lai cho phép Ông vào trong hỏi pháp.

Tu-bạt nghe lời này, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm. Tu-bạt đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Bấy giờ, Tu-bạt bạch Phật:

- Nay tôi có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn cho phép.

Thế Tôn bảo Tu-bạt:

- Nay chính phải thời, có thể hỏi.

Tu-bạt bạch Phật:

- Các Sa-môn Cù-đàm khác biết các toán thuật, phần nhiều hơn đời. Ðó là Bất-lan Ca-diếp, A-di-chuyên, Cù-da-lâu, Chi-hưu Ca-diên, Tiên-tỷ Lư-trì, Ni-kiền Tử v.v... Những người như thế biết việc trong ba đời chăng? Là không biết chăng? Trong Lục sư ấy có ai hơn Như Lai chăng?

Bấy giờ, Thế Tôn bảo:

- Thôi, thôi, Tu-bạt! Chớ hỏi nghĩa này. Cần gì hỏi họ hơn Như Lai không? Hôm nay, Ta ở tại chỗ này, sẽ vì Ông thuyết pháp, khéo suy nghĩ nhớ lấy.

Tu-bạt bạch Phật:

- Nay tôi đáng hỏi nghĩa thâm sâu, cúi xin Thế Tôn đúng thời nói.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo:

- Khi ta mới học đạo, hai mươi chín tuổi, vì muốn độ dân chúng, nên từ đó đến ba mươi lăm tuổi, theo học trong chúng ngoại đạo. Từ đó đến nay lại không thấy có Sa-môn, Bà-la-môn trong đại chúng nào không có Tám Thánh đạo, ắt không có bốn quả Sa-môn.

Thế nên, này Tu-bạt! Thế gian rỗng không lại không có bậc Chân nhân hắc đạo. Do trong pháp Hiền Thánh kia có pháp Hiền Thánh, nên có bốn quả Sa-môn. Vì sao? Nhân duyên có bốn quả Sa-môn đều do Tám đạo phẩm Hiền Thánh.

Này Tu-bạt! Nếu Ta không được đạo Vô thượng Chánh Chân, đều do không được Tám đạo phẩm Hiền Thánh. Do được Tám đạo phẩm Hiền Thánh nên ta thành Phật đạo. Thế nên, này Tu-bạt, nên tìm phương tiện thành tựu đạo Hiền Thánh.

Tu-bạt lại bạch Phật:

- Tôi cũng thích nghe Tám đạo phẩm Hiền Thánh, cúi xin diễn nói.

Phật bảo:

- Tám đạo phẩm là: Ðẳng kiến, Ðẳng trị, Ðẳng ngữ, Ðẳng mạng, Ðẳng nghiệp, Ðẳng phương tiện, Ðẳng niệm, Ðẳng tam muội. Tu-bạt! Ðó là Tám đạo phẩm Hiền Thánh.

Lúc ấy, Tu-bạt liền tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh. Tu-bạt nói với A-nan:

- Hôm nay con vui mừng được lợi lành. Cúi xin Thế Tôn cho phép con làm Sa-môn.

A-nan đáp:

- Ông hãy tự đến chỗ Thế Tôn mà xin làm Sa-môn.

Tu-bạt đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lạy chân Phật, bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn cho phép con làm Sa-môn.

Bấy giờ, Tu-bạt liền thành Sa-môn, thân mặc ba pháp y. Khi ông ngẩng nhìn dung mạo Thế Tôn, liền tại chỗ ngồi được giải thoát tâm hữu lậu.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nan:

- Ðệ tử tối hậu của Ta là Tu-bạt.

Tu-bạt bạch Phật:

- Con nghe Thế Tôn vào giữa đêm nay nhập Niết-bàn. Cúi xin Thế Tôn cho phép con nhập Niết-bàn trước. Con không kham thấy Thế Tôn diệt độ trước.

Bấy giờ, Thế Tôn yên lặng hứa khả. Vì sao? Hằng sa chư Phật Thế Tôn đời quá khứ, đệ tử chứng đạo rốt sau đều nhập Niết-bàn trước, Như Lai diệt độ sau. Ðây là pháp thường của chư Phật Thế Tôn, chẳng phải mới hôm nay.

Tu-bạt thấy Thế Tôn đã hứa khả, liền ở trước Phật, chánh thân chánh ý buộc niệm ở trước, nơi cảnh giới Niết-bàn Vô dưdiệt độ. Lúc ấy mặt đất chấn động sáu cách.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Tất cả hành vô thường
Có sanh ắt có tử
Không sanh thì không tử
Diệt này rất là vui.

Lúc ấy, Thế Tôn bảo A-nan:

- Từ nay về sau, răn nhắc các Tỳ-kheo, không nên đối đãi nhau như thói thường, người lớn xưng Tôn, người nhỏ xưng Hiền, xem nhau như anh em. Từ nay về sau không được xưng tên do cha mẹ đặt.

A-nan bạch Phật:

- Các Tỳ-kheo ngày nay, phải tự xưng tên hiệu như thế nào?

Phật dạy:

- Nếu thầy Tỳ-kheo nhỏ đối với Thầy Tỳ-kheo lớn thì gọi là trưởng lão. Tỳ kheo lớn gọi Tỳ-kheo nhỏ bằng họ. Lại, các Tỳ-kheo muốn đặt tên, phải y cứ vào Tam tôn. Ðây là lời dạy bảo của Ta.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12493)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10367)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12335)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11640)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28801)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12047)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13006)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11442)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53030)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35481)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21388)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10677)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19236)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12403)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26034)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13312)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14376)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16072)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13726)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16827)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17571)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13116)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12517)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11606)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11599)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14502)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20467)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18987)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19561)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18649)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12181)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12298)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13857)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15024)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15035)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13988)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15509)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11392)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17189)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14975)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20194)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14611)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13837)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11708)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15056)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22867)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14552)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11647)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13165)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18338)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11494)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15846)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12870)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18417)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant