Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

44. Phẩm Chín nơi cư trú của chúng sanh

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10476)
44. Phẩm Chín nơi cư trú của chúng sanh

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3
XXXIV. Phẩm Chín nơi cư trú của chúng sanh

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có chín nơi cư trú của chúng sanh, là chỗ chúng sanh ở. Thế nào là chín? Hoặc có chúng sanh, bao nhiêu thân bấy nhiêu tư tưởng. Ðó là cõi Trờicõi Người.

Hoặc có chúng sanh bao nhiêu thân một tư tưởng. Ðó là cõi trời Phạm-ca-di, xuất hiện trước nhất.

Hoặc có chúng sanh một thân bao nhiêu tư tưởng. Ðó là cõi trời Quang Âm.

Hoặc có chúng sanh một thân một tư tưởng. Ðó là cõi trời Biến Tịnh.

Hoặc có chúng sanh vô lượng hư không. Ðó là cõi trời Không xứ.

Hoặc có chúng sanh vô lượng thức. Ðó là cõi trời Thức xứ.

Hoặc có chúng sanh không dùng xứ. Ðó là cõi trời Bất dụng xứ.

Hoặc có chúng sanh có tưởng, không tưởng. Ðó là cõi trời Hữu tưởng vô tưởng.

Các nơi sanh ra có chín tên. Các Tỳ-kheo, đó là chín chỗ cư trú của chúng sanh, các loài chúng sanh đã ở, sẽ ở. Cho nên, các Tỳ-kheo! Nên tìm phương tiện xa lìa chín nơi này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy xong liền vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta sẽ nói về chín đức của nguyện bố thí, các Thầy khéo suy nghĩ đó, Ta sẽ diễn bày nghĩa ấy.

Khi ấy các Tỳ-kheo vâng lãnh lời Phật dạy, Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Thế nào là chín đức của nguyện bố thí? Tỳ-kheo nên biết, đàn việt cúng thí thành tựu ba pháp, vật được thí cũng thành tựu ba pháp, người nhận vật thí cũng thành tựu ba pháp.

Thế nào là thí chủ đàn việt thành tựu ba pháp? Ở đây, thí chủ đàn-việt được thành tựu lòng tin, thành tựu thệ nguyện, cũng không sát sanh. Ðó gọi là thí chủ đàn-việt thành tựu ba pháp.

Thế nào là vật được thí thành tựu ba pháp? Ở đây, vật thí thành tựu sắc, thành tựu hương, thành tựu vị. Ðó là vật thí thành tựu ba pháp.

Thế nào là người nhận thí thành tựu ba pháp? Ở đây, người được thí thành tựu giới, thành tựu trí tuệ, thành tựu chánh định. Ðó là người nhận thí thành tựu ba pháp.

Như thế, bố thí thành tựu chín pháp này, được quả báo lớn, đến chỗ cam lồ, diệt tận. Phàm thí chủ muốn cầu được phước ấy thì nên tìm phương tiện thành tựu chín pháp. Như thế, các Tỳ-kheo nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có sự việc gọi là thành tựu chín pháp. Thế nào là chín? Là sắc mặt cứng cỏi, không hạ mình, tâm tham, bỏn sẻn, tâm niệm không xả ly, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết đền ơn. Ðó là chín pháp. Này Tỳ-kheo! Ðó gọi là thành tựu chín pháp này.

Tỳ-kheo ác cũng thành tựu chín pháp. Thế nào là chín? Ở đây, Tỳ-kheo ác sắc mặt cứng cỏi, không hạ mình, tâm tham, bỏn sẻn, chóng quên, lười suy nghĩ, che giấu việc dâm, không biết đền ơn, tâm niệm không xả ly. Ðó là chín pháp.

Thế nào là Tỳ-kheo ác sắc mặt cứng cỏi? Ở đây, Tỳ-kheo ác tìm cầu điều không nên tìm cầu, trái với hạnh Sa-môn. Tỳ-kheo như thế gọi là sắc mặt cứng cỏi.

Thế nào là Tỳ-kheo ác chịu nhục? Ở đây, Tỳ-kheo ác ở nơi các Tỳ-kheo hiền thiện mà tự khen mình, hủy báng người khác. Tỳ-kheo như thế gọi là chịu nhục.

Thế nào là Tỳ-kheo sanh tâm tham? Ở đây, Tỳ-kheo ác, thấy tài vật của người khác đều sanh tâm tham. Ðây gọi là tham.

Thế nào là Tỳ-kheo bỏn sẻn? Ở đây, Tỳ-kheo ác, được y bát không cho người dùng chung, thường tự cất giấu. Như thế gọi là bỏn sẻn.

Thế nào là Tỳ-kheo hay quên? Ở đây, Tỳ-kheo ác, phần lớn thường để rơi mất những lời diệu thiện, cũng chẳng suy nghĩ phương tiện tu, bàn luận chuyện quốc gia binh chiến. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác thành tựu sự chóng quên này.

Thế nào là Tỳ-kheo ác lười suy nghĩ? Ở đây, Tỳ-kheo ác đối với pháp cần suy nghĩ mà không suy nghĩ. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác ít suy nghĩ.

Thế nào gọi là Tỳ-kheo ác che giấu việc dâm? Ở đây, Tỳ-kheo ác có việc dâm mà che giấu, không nói với người: 'Nay tôi hành dâm chớ để người biết'. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác che giấu việc dâm.

Thế nào là Tỳ-kheo ác không biết đền ơn? Ở đây, Tỳ-kheo ác không có tâm cung kính, không hầu hạ thầy và các bậc đáng tôn trọng. Như thế gọi là Tỳ-kheo ác không biết đền ơn.

Nếu Tỳ-kheo ác thành tựu chín pháp này, ghi nhớ không bỏ, thì trọn không thành đạo quả. Cho nên,này các Tỳ-kheo, đối với các pháp ác nhớ nên xa bỏ. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe xong lời Phật dạy, liền vui vẻ vâng làm.

*

4. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Chim khổng tước thành tựu chín pháp. Thế nào là chín ? Ở đây, chim khổng tước dáng dấp đoan chánh, tiếng kêu thanh tao, bước đi khoan thai, làm đúng thời, ăn uống vừa chừng, thường nhớ tri túc, niệm không phân tán, ít ngủ nghỉ, ít muốn, biết đền ơn. Này các Tỳ-kheo, đó là chim khổng tước thành tựu chín pháp này.

Tỳ-kheo hiền triết cũng thành tựu chín pháp. Thế nào la chín? Ở đây, Tỳ-kheo hiền thiện dung mạo đoan chánh, tiếng nói thanh tao, bước đi khoan thai, làm đúng thời, ăn uống chừng mực, thường nghĩ biết đủ, niệm không phân tán, ít ngủ, cũng lại ít muốn, biết đền ơn.

Thế nào là Tỳ-kheo hiền thiện, dung mạo đoan chánh? Nghĩa là Tỳ-kheo ấy những oai nghi ra vào, đi đứng, trọn không mất tư cách. Như thế là Tỳ-kheo hiền thiện, dung mạo đoan chánh.

Thế nào là Tỳ- kheo tiếng nói thanh tao? Ở đây, Tỳ-kheo phân biệt nghĩa lý, trọn không lầm đoạn. Như thế là Tỳ-kheo tiếng nói thanh tao.

Thế nào là Tỳ-kheo bước đi khoan thai? Ở đây, Tỳ-kheo biết thời hành động không mất thứ tự, lại biết có thể tụng biết tụng, có thể tập biết tập, có thể im lặng biết im lặng, có thể đứng dậy biết đứng dậy. Như thế là Tỳ-kheo biết thời tiết.

Thế nào là Tỳ-kheo làm đúng thời? Ở đây, Tỳ-kheo cần đi liền đi, cần dừng liền dừng, tùy thời nghe pháp. Như thế là Tỳ-kheo là đúng thời.

Thế nào là Tỳ-kheo ăn uống vừa chừng? Ở đây, Tỳ-kheo được thức ăn dư, đem chia cho người cùng ăn, không tham tiếc. Như thế là Tỳ-kheo ăn uống vừa chừng.

Thế nào là Tỳ-kheo ít ngủ nghỉ? Ở đây, Tỳ-kheo vào đầu hôm tập tỉnh thức, tu tập Ba mươi bảy đạo phẩm không để rơi mất. Thường dùng cách đi kinh hành, nằm tỉnh giác để tịnh ý mình, lại vào giữa đêm suy nghĩ về pháp sâu xa, đến cuối đêm thời nằm nghiêng hông bên mặt, hai chân duỗi thẳng xếp lên nhau, tư duy suy tưởng về ánh sáng, rồi đứng dậy kinh hành để tịnh ý mình. Như thế là Tỳ-kheo ít ngủ nghỉ.

Thế nào là Tỳ-kheo ít muốn, biết đền ơn? Ở đây, Tỳ-kheo hầu hạ phụng sự ba ngôi báu, kính vâng sư trưởng. Như thế là Tỳ-kheo ít muốn, biết đền ơn.

Như thế, Tỳ-kheo hiền thiện thành tưụ chín pháp. Nay chín pháp này nên ghi nhớ vâng làm. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Người nữ thành tựu chín pháp ràng buộc người nam. Thế nào là chín? Là ca, múa, đàn, hát, cười, khóc, thường tìm cách thích hợp, tự dùng nhan sắc hình dung, huyễn thuật mê hoặc. Họ toan tính trong bao nhiêu việc ấy, chỉ thích ràng buộc người nam chặt chẽ; trăm lần ngàn lần không thể so sánh.

Nay Ta quán sát các việc như vậy, người nữ thích ràng buộc người nam chặt chẽ, không cho thoát khỏi là như thế. Theo đó, người nam bị ràng buộc trong lao ngục.

Cho nên, các Tỳ-kheo nên nhớ nghĩ trừ bỏ chín pháp này. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn trúc Ưu-ca-la, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Ta sẽ nói diệu pháp cho các Thầy phần đầu, phần giữa, phần cuối đều lành, nghĩa lý sâu kín, thanh tịnh tu hành Phạm hạnh. Kinh này tên là 'Cội gốc của tất cả các Pháp'. Các thầy nên khéo suy nghĩ ghi nhớ.

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy. Phật bảo:

- Thế nào gọi là 'Cội gốc của tất cả pháp ?'.

Ở đây, này các Tỳ-kheo, người phàm phu không gặp giáo lý Hiền Thánh, cũng không vâng giữ lời dạy của Như Lai, không gần gũi Thiện tri thức, không nghe lời dạy cuả Thiện tri thức.

Họ quán sát đất này, biết một cách như thật rằng: đây là đất, quán sát đất này như là đất thật; đây là nước; đây là lửa; đây là gió. Bốn thứ ấy hợp lại thành con người. Ðây là sự vui thích của ngu. Trời tự biết là Trời, thích ở cõi trời. Trời Phạm thiên tự biết là Phạm thiên. Trời Ðại phạm tự biết là Ðại phạm. Không thể ra khỏi trời Quang Âm lại tự biết cho cõi trời Quang Âm đến. Trời Biến Tịnh tự biết là Biến Tịnh. Trời Quảng Quả tự biết là Quảng Quả không lầm lẫn. Trời A-tỳ-da-đà tự biết là trời A-tỳ-da-đà. Trời Không xứ tự biết là trời Không xứ. Trời Thức xứ tự biết là trời Thức xứ. Trời Bất tưởng vô tưởng xứ tư biết là trời Hữu tưởng vô tưởng xứ.

Thấy tự biết là thấy, nghe tự biết là nghe, muốn tự biết là muốn, trí tự biết là trí, một loại tự biết là một loại, bao nhiêu loại tư biết là bao nhiêu loại, thảy đều đầy đủ tự biết là thảy đều đầy đủ, Niết-bàn tự biết là Niết-bàn, tự vui thích trong đó. Vì sao? Vì chẳng phải là lời nói của bậc Trí.

Nếu là đệ tử bậc Thánh thì đến gặp gỡ bậc Thánh, vâng thọ pháp của bậc Thánh, theo Thiện tri thức làm việc, thường gần gũi bậc Thiện tri thức; quan sát đất, thảy đều biết chỗ đến của nó rõ ràng, cũng không đắm trước nơi đất, không có tâm nhiễm ô; nước, lửa, gió cũng lại như thế. Trời, Người, Phạm Vương, Quang Âm, Biến Tịnh, Quảng Quả, trời A-tỳ-da-đà, Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng vô tưởng xứ đều thấy, nghe, nhớ biết; một loại, bao nhiêu loại, cho đến đối với Niết-bàn cũng chẳng đắm trước Niết-bàn, không khởi tưởng Niết-bàn. Vì sao? Ðều do khéo phân biệt, khéo quan sát.

Nếu Tỳ-kheo ấy là bậc A-la-hán lậu tận, việc làm đã xong, đã bỏ gánh nặng, cùng tận cội nguồn sanh tử, giải thoát bình đẳng thì người ấy có thể phân biệt đất đai, quán sát không khởi tưởng đắm trước về đất; Người, Trời, Phạm vương cho đến Hữu tưởng vô tưởng xứ, cũng lại như thế; cho đến đối với Niết-bàn không đắm trước Niết-bàn, không khởi tưởng Niết-bàn. Vì sao? Ðều do trừ khử dâm, nộ, si mà được như thế.

Tỳ-kheo nên biết! Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác khéo hay phân biệt về đất, cũng không đắm trước nơi đất. Vì sao? Ðều do diệt trừ lưới ái mà được vậy. Nhân hữu nên có sanh, nhân sanh nên có già, chết, thảy đều trừ hết. Cho nên Như Lai thành Vô Thượng Chánh Giác.

Khi Phật nói lời này, lúc ấy các Tỳ-kheo không nghe lời dạy nầy. Vì sao? Vì do ma Ba-tuần làm bế tắc tâm ý.

Kinh này tên 'Cội gốc của Tất cả Pháp'. Nay Ta nói đầy đủ như vậy. Ðiều cần tu hành của Chư Phật, nay Ta đã làm đầy đủ. Các thầy nên ghi nhớ, ở chỗ vắng, dưới cội cây, tâm ý đoan nghiêm tọa Thiền, tư duy nghĩa thâm diệu. Hôm nay không làm, sau hối hận vô ích. Ðây là lời giáo của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7. Tôi gnhe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấy giờ, trong thành La-duyệt có một Tỳ-kheo đau nặng đến nguy kịch, nằm một chỗ, đại tiểu tiện, không thể tự ngồi dậy, cũng chẳng có Tỳ-kheo nào đến thăm hỏi chăm sóc. Ngày đêm Thầy xưng danh hiệu Phật: 'Sao Thế Tôn chẳng thương xót ta?'

Khi ấy, Thế Tôn dùng Thiên nhĩ nghe Tỳ-kheo ấy kêu than, hướng về Như Lai. Thế Tôn bèn bảo các Tỳ-kheo:

- Ta với các Thầy đi thăm các phòng liêu, xem xét chỗ ở.

Các Tỳ-kheo thưa:

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Khi ấy, Thế Tôn bèn cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đi thăm qua các liêu phòng. Tỳ-kheo bệnh xa thấy Thế Tôn đến, liều muốn ngồi dậy mà không cử động nổi. Thế Tôn đến bên chỗ Tỳ-kheo ấy, bảo rằng:

- Thôi, thôi! Này Tỳ-kheo, đừng tự cử động. Ta tự có chỗ ngồi sẵn.

Khi ấy, Tỳ-sa-môn Thiên vương biết ý nghĩa của Như Lai, từ thế giới Dạ-mã ẩn, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, đứng qua một bên.

Thích-đề-hoàn-nhân biết ý nghĩ trong tâm Như Lai, từ cõi Phạm thiên ẩn, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui qua một bên.

Trời Tứ thiên vương biết ý nghĩ trong tâm Như Lai, bèn đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui đứng một bên.

Khi ấy, Phật hỏi Tỳ-kheo bệnh:

- Hôm nay bệnh khổ của Thầy có thuyên giảm chăng?

Tỳ-kheo thưa:

- Bệnh khổ của đệ tử tăng chứ không giảm, rất ít được nhờ cậy.

Phật hỏi các Tỳ-kheo:

- Người khám bệnh hiện ở đâu? Người nào đến thăm bệnh?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Nay mắc phải bệnh này, không có ai trông nom.

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Trước kia, khi Thầy chưa bệnh, có đến thăm hỏi người bệnh chăng?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Không đến hỏi han các người bệnh.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Nay Thầy không có lợi lành ở trong Chánh pháp. Vì sao? Vì không đến hỏi thăm bệnh. Nay Tỳ-kheo chớ lo sợ, Ta sẽ đích thân cung dưỡng cho Thầy, không để thiếu. Như hiện nay, Ta là người trong cõi Trời, cõi Người, riêng một mình không bạn bè, mà cũng có thể thăm hỏi tất cả người bệnh. Người không ai giúp đỡ, Ta vì họ làm người giúp đỡ. Với người mù Ta làm mắt cho họ, cứu giúp các người bệnh.

Khi ấy, Thế Tôn tự đổ đồ bất tịnh, lại trải tọa cụ cho người bệnh. Tỳ-sa-môn Thiên vương và Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:

- Chúng con tự sẽ săn sóc thầy Tỳ-kheo bệnh nầy, xin Thế Tôn chớ nhọc sức.

Phật bảo các Thiên tử:

- Các Ông hãy ngừng. Như Lai tự biết thời. Như Ta tự nhớ lại, thuở xưa khi chưa thành Phật, tu hạnh Bồ-tát, vì hai con chim bồ câu nên bỏ mạng sống, huống gì ngày nay đã thành Phật, lại bỏ Tỳ-kheo nầy ư? Trọn không có việc ấy. Lại, trước đây Thích-đề-hoàn-nhân không thăm nom Tỳ-kheo bệnh này, Tỳ-sa-môn Thiên vương là vị chủ hộ thế gian cũng không đến thăm.

Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân và Tỳ-sa-môn Thên vương đều im lặng không trả lời. Bấy giờ, Thế Tôn cầm chổi quét dọn đất dơ, rồi sắp đặt tọa cụ, lại giặt giũ ba y, đỡ Tỳ-kheo bệnh bảo ngồi trong bồn nước sạch tắm rửa. Có các vị Trời ở trên lấy nước thơm rưới vào đó.

Khi ấy, Thế tôn tắm rửa cho Tỳ-kheo kia xong, đỡ lại giường, tự tay cho ăn. Thế Tôn thấy Tỳ-kheo ấy ăn xong, đem bát rửa và bảo Tỳ-kheo ấy:

- Nay Thầy nên bỏ bệnh khổ của ba đời. Vì sao? Tỳ-kheo nên biết, sanh có khổ ách trong thai, nhân sanh có già. Khi già, hình thể gầy yếu, khí lực kiệt. Nhân già có bệnh, khi bệnh nằm ngồi rên rỉ, bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh đến một lúc. Nhân bệnh có chết, khi chết thì hình hài, thần thức phân tán đi theo đường lành dữ. Nếu người nhiều tội sẽ vào địa ngục núi đao, cây kiếm, xe lửa, lò than, ăn nuốt nước đồng sôi. Hoặc người ấy làm súc sanh bị người sai khiến, ăn toàn rơm cỏ chịu khổ vô lượng. Lại không thể tính kể trong vô số kiếp người ấy làm thân ngạ quỷ, thân cao mười do-tuần, cổ nhỏ như cây kim, lại có nước đồng rót vào miệng. Trải qua vô số kiếp được làm thân người, người ấy bị đánh đập khảo tra không tính kể. Lại trong vô số kiếp được sanh lên trời, người ấy cũng trải qua ân ái hội họp, lại gặp ân ái biệt ly, tham muốn không chán đủ. Ðược đạo Hiền Thánh bấy giờ người ấy mới lìa khổ.

Nay có chín hạng người được lìa khổ hoạn. Thế nào là chín? Ðó là người hướng A-la-hán, đắc A-la-hán; hướng A-na-hàm, đắc A-na-hàm; hướng Tư-đà-hàm, đắc Tư-đà-hàm; hướng Tu-đà-hoàn, đắc Tu-đà-hoàn; và chủng tánh Người là chín.

Thế nên, này Tỳ-kheo! Như Lai ra đời rất là khó gặp, thân người khó được, sanh trưởng vào trung tâm của nước cũng khó được, gặp bậc Thiện tri thức cũng lại như thế. Nghe nói pháp cũng không thể được. Các pháp cùng sanh với nhau, đúng thời mới có. Tỳ-kheo nên biết, ngày nay Như Lai hiện ở tại thế gian, được nghe Chánh pháp, các căn không thiếu, có thể kham nghe Chánh pháp kia. Hôm nay không siêng năng sau hối không kịp. Ðây là lời dạy của Ta.

Bấy giờ, Tỳ-kheo bệnh ấy nghe Như lai dạy xong, được thấy tôn nhan, liền ngay tại chỗ ngồi được Tam minh, lậu tận ý giải. Phật bảo Tỳ-kheo:

- Thầy đã rõ được cội nguồn của bệnh chăng?

Tỳ-kheo bạch Phật:

- Con đã hiểu cội nguồn của bệnh, xa lìa sanh, lão, bệnh, tử này, đều là uy thần của Như Lai gia hộ, dùng Tứ đẳng tâm che chở cho tất cả, không lường, không gằn mé, không thể xưng kể. Thân, miệng, ý thanh tịnh.

Khi ấy, Thế Tôn nói pháp đầy đủ rồi, liền từ tòa đứng dậy đi ra.

Bấy giờ Thế Tôn bảo A-nan:

- Thầy mau đánh kiền chùy, để các vị Tỳ-kheo có mặt trong thành La-duyệt này cùng đến nhóm họp tại giảng đường Phổ Hội.

A-nan vâng theo lời Phật, liền nhóm các Tỳ-kheo tại giảng đường Phổ Hội, và đến trước Phật bạch:

- Các Tỳ-kheo đã nhóm họp, cúi xin Thế Tôn biết đúng thời.

Bấy giờ Thế Tôn đi đến giảng đường, lên tòa ngồi. Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy học đạo là vì sợ quốc vương, giặc cướp mà xuất gia chăng? Tỳ-kheo, hay là vì lòng tin vững chắc, tu Phạm hạnh vô thượng, muốn được xả bỏ sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não, cũng muốn xa lìa Mười hai nhân duyên?

Các Tỳ-kheo thưa:

- Ðúng vậy, thưa Thế Tôn.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

- Các Thầy sở dĩ xuất gia đồng một Thầy, hòa hợp như nước sữa, mà không chăm nom lẫn nhau. Từ nay về sau nên lần lượt chăm sóc thăm nom nhau. Nếu Tỳ-kheo bệnh không có đệ tử, trong chúng nên cử người lần lượt làm khán bệnh. Vì sao? Ngoài việc này ra, không thấy có việc gì hơn phước của người chăm sóc bệnh. Người chăm sóc bệnh như chăm sóc Ta không khác.

Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Nếu có cúng dường Ta,
Và chư Phật quá khứ,
Phước đức cúng thí Ta,
Không khác chăm nom bệnh.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy lời ấy xong, bảo A-nan:

- Từ nay về sau, các Tỳ-kheo mỗi mỗi chăm nom bệnh lẫn nhau. Nếu có Tỳ-kheo biết mà không làm thì các Thầy nên căn cứ theo luật. Ðây là lời giáo giới của Ta.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở taị nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Có chín hạng người đáng kính, đáng quý, cúng dường những vị ấy được phước. Thế nào là chín? Ðó là những vị hướng A-la-hán, đắc A-la-hán; hướng A-na-hàm, đắc A-na-hàm; hướng Tư-đà-hàm, đắc Tu-đà-hàm, hướng Tu-đà-hoàn, đắc Tu-đà-hoàn, và hạnh chủng tánh Người là chín.

Này các Tỳ-kheo, đó là chín hạng người, cúng dường cho các vị ấy được phước trọn không mất.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ làm.

*

9. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Khi ấy, vương tử Mãn-hô đến chỗ Thế Tôn, đầu mặt lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Vương tử Mãn-hô bạch đức Phật:

-Con từng nghe Thầy Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc cùng bàn luận với Phạm chí Lư-ca-diên, nhưng Tỳ-kheo ấy không thể đối đáp. Con lại từng nghe trong hàng chúng đệ tử của Phật, người mà các căn ám độn, không có trí tuệ sáng, không ai hơn Tỳ-kheo này.

Trong hàng Ưu-bà-tắc tại gia của Thế Tôn, dòng họ Cồ-đàm trong thành Ca-tỳ-la-vệ các căn ám độn, tình ý bế tắc.

Ðức Phật bảo Vương tử:

- Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc có sức thần túc, được pháp hơn người, không tập theo cách đàm luận thế gian. Lại, Vương tử nên biết, Tỳ-kheo này rất có diệu nghĩ.

Khi ấy, vương tử Mãn-hô bạch Phật:

- Tuy Phật nói như thế, song trong ý con vẫn còn sanh niệm này: Vì sao có đại thần lực mà không thể cùng luận nghi với ngoại đạo dị học kia? Nay con thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng, chỉ trừ một mình Châu-lợi-bàn-đặc.

Khi ấy, đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Vương tử thấy Thế Tôn đã nhận thỉnh rồi, bèn đứng dậy, cúi đầu lạy chân Phật, đi quanh về hướng tay mặt ba vòng rồi lui ra. Liền trong đêm ấy, vương tử sửa soạn các thức ăn uống ngon, trải tọa cụ tốt đẹp. Sáng sớm vương tử đến bạch Phật:

- Ðã đến giờ, nay là đúng thời.

Bấy giờ, Thế Tôn đưa bát cho Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc giữ ở lại sau, Ngài dắt chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau đi vào thành La-duyệt, đến chỗ của vương tử, theo thứ lớp an tọa. Bấy giờ, vương tử bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn trao bát cho con.

Hôm nay con muốn tự dâng thức ăn cho Thế Tôn.

Phật bảo vương tử:

- Bát ở tại chỗ của Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, không mang đến đây.

Vương tử bạch Phật:

- Xin thế Tôn bảo một vị Tỳ-kheo về mang bát đến đây.

Phật bảo vương tử:

- Nay Ông hãy tự đi lấy bát Như Lai đến đây.

Bấy giờ, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc hóa làm năm trăm cội cây, dưới mỗi cội cây đều có Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc ngồi. Vương tử nghe lời Phật dạy, đi về lấy bát, xa thấy dưới năm trăm cội cây đều có Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc ngồi Thiền, buộc niệm ở phía trước không tán loạn. Thấy rồi, vương tử liền nghĩ: 'Người nào là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc?' Vương tử Mãn-hô bèn trở lại chỗ Thế Tôn bạch rằng:

- Con đến vườn ấy, đều thấy toàn là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, không biết người nào là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc. Phật bảo vương tử:

- Ông trở lại bên đó, đến ngay chỗ người ngồi chính giữa vườn khảy móng tay nói rằng: 'Ðây thật là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, xin mời đứng lên'.

Vương tử Mãn-hô nghe lời Phật dạy, lại đi vào vườn, đến chỗ người ngồi giữa nói:

- Ðây thật là Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, xin mời đứng lên.

Vương tử nói lời ấy xong, năm trăm Tỳ-kheo hóa hiện kia tự nhiên biến mất, chỉ còn lại một Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc. Khi ấy, vương tử Mãn-hô cùng Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật, lui qua một bên.

Vương tử Mãn-hô bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn, nay con tự hối hận, trách mình không tin lời dạy của Như Lai. Vị Tỳ-kheo này có thần túc oai lực rất lớn.

Phật bảo vương tử:

- Cho phép Ông sám hối, Như Lai nói ra không hai lời. Lại ở thế gian này có chín hạng người đối xử qua lại. Thế nào là chín? Một là biết trước nhơn tình, hai là nghe rồi mới biết, ba là xem tướng rồi sau mới biết, bốn là quan sát nghĩa lý rồi sau mới biết, năm là biết vị rồi sau mới biết, bảy là không biết nghĩa không biết vị, tám là học hỏi nơi sức thần túc tư duy, chín là hiểu nghĩa rất ít. Này Vương tử, đó là chín hạng người xuất hiện ở đời. Như thế, này Vương tử, người xem tướng kia trong tám hạng người bậc nhất, không lầm lỗi.

Nay Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc này học tập về thần túc, không học các pháp khác. Tỳ-kheo này thường dùng thần túc thuyết pháp cho người, còn Tỳ-kheo A-nan của Ta xem tướng liền biết, đoán biết nhơn tình, biết Như Lai cần điều này, không cần điều này, cũng biết Như Lai cần nói việc này, lìa việc này, thảy đều rõ ràng. Hiện nay không ai hơn Tỳ-kheo A-nan, đọc rộng các kinh nghĩa, thảy đều khắp hết.

Lại, Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc này có thể hóa hiện một thân hình làm bao nhiêu thân hình, lại trở về hiệp làm một mình. Tỳ-kheo ấy ngày sau sẽ ở trong hư khôngdiệt độ. Ta lại không thấy người nào diệt độ có thể so sánh như Tỳ-kheo A-nan và Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc.

Khi ấy, Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo bậc nhất trong hàng Thanh văn của Ta, có thể biến hóa thân hình ra lớn, ra nhỏ, không ai có thể so sánh với Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc.

Khi ấy vương tử Mãn-hô, tự tay mang thức ăn, nước uống cúng dường chúng Tăng; rửa bát xong, ngồi bên ghế nhỏ phía trước đức Phật, chắp tay bạch Phật:

-Cúi xin Thế Tôn, cho phép Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc thường đến nhà con, tùy theo chỗ cần dùng theo y phục, mền nệm, các vật linh tinh của Sa-môn, đều đến nhà con lấy. Con sẽ cung cấp những vật cần thiết suốt đời.

Phật bảo vương tử:

- Nay vương tử nên hướng về phía Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc sám hối, đích thân mời thỉnh. Vì sao? Người không có trí muốn biết người trí, việc này khó làm. Còn người trí biết được người trí, có thể được.

Khi ấy, vương tử Mãn-hô liền hướng về Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc, đảnh lễ xưng tên họ, xin sám hối:

- Bạch Tỳ-kheo đại thần túc, con sanh tâm khinh mạn, từ nay về sau không dám tái phạm. Cúi xin nhận sự sám hối của con, không dám phạm lại.

Tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc đáp:

- Cho phép Ông hối lỗi, sau chớ phạm lại, Cũng chớ phỉ báng Hiền Thánh. Vương tử nên biết, nếu có chúng sanh phỉ báng Thánh nhơn thì sẽ phải đọa ba đường ác, sanh trong địa mgục. Như thế, Vương tử nên học theo điều này.

Bấy giờ, Phật thuyết pháp rất vi diệu cho Vương tử Mãn-hô, khuyến khích cho phát sanh hoan hỷ, liền tại chỗ ngồi, nói lời chú nguyện này:

Tế tự, lửa trên hết,
Sách kinh, tụng trên hết,
Cõi người, vua trên hết,
Các dòng, biển là trên,
Các sao, trăng trước nhất,
Ánh sáng, trời bậc nhất,
Trên dưới và bốn phương,
Những loài có hình tướng,
Trời và Người trong đời,
Phật là bậc tối tôn,
Người muốn cầu phước báu,
Cúng dường Phật ba đời.

Bấy giờ, Phật nói kệ này rồi, liền rời tòa đứng dậy. Khi ấy, vương tử Mãn-hô nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thiện tri thức, tức là người có phạm hạnh phân nửa, sẽ hướng dẫn đường lành đến vô vi.

Phật bảo A-nan:

- Chớ nói lời như thế. Nói rằng: 'Bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh phân nửa'. Vì sao? Phàm là bậc Thiện tri thức, tức là người Phạm hạnh trọn vẹn mới dẫn dắt chỉ bảo cho người theo mình con đường lành. Ta cũng do Thiện tri thức mà thành Vô Thượng Chánh Chơn Ðẳng Chánh Giác. Do thành đạo quả, nên độ thoát chúng sanh không thể tính kể, thảy đều khỏi được sanh, lão, bệnh, tử. Do phương tiện này, nên biết bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh trọn vẹn.

Lại nữa, A-nan, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, kính vâng theo Thiện tri thức thì lòng tin được tăng nhiều, văn, thí, tọa, đức, thảy đều đầy đủ. Thí như trăng càng tròn, ánh sáng càng tăng hơn ngày thường gấp bội. Ðây cũng lại như vậy, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn gần gũi Thiện tri thức, thì lòng tin, chỗ học hỏi, sự ghi nhớ, trí tuệ của người ấy thảy đều tăng lên. Do phương tiện nên biết bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh trọn vẹn.

Nếu ngày xưa Ta không kính vâng theo Thiện tri thức thì trọn vẹn sẽ không được Phật Ðăng Quang thọ Ký. Do đã kính vâng bậc Thiện tri thức, nên Ta được Phật Ðăng Quang thọ ký. Do phương tiện này nên biết, bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh trọn vẹn.

Này A-nan, nều thế gian không có bậc Thiện tri thức thì sẽ không có thứ tự tôn ti về phụ mẫu, sư trưởng, huynh đệ, tông thân, ắt sẽ giống như loài heo chó, tạo các duyên ác, gieo trồng tội duyên trong địa ngục. Có Thiện tri thức nên phân biệtcha mẹ, sư trưởng, huynh đệ, tông thân.

Lúc ấy, Thế Tôn bèn nói kệ:

Thiện tri thức chẳng ác,
Vì pháp, không vì ăn,
Dắt dẫn nơi đường lành,
Ðích thân bậc Tôn nói.

Cho nên, này A-nan, chớ lại nói lời: 'Bậc Thiện tri thức là người Phạm hạnh phân nửa'.

Bấy giờ, A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

11. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở lại tại thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Lúc ấy, Thích-đề-hoàn-nhân từ cõi trời Ba mươi ba ẩn, bay đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên và bạch Phật:

- Loài Người và Trời có những tưởng niệm gì? Ý mong muốn điều gì?.

Phật bảo:

- Thế gian trôi giạt, tánh ý không giống nhau, con đường của mỗi loài mỗi khác, tưởng niệm chẳng phải một. Thiên đế nên biết, khi xưa, trải qua bao số A-tăng-kỳ kiếp, Ta cũng sanh ý nghĩ này: 'Loài Trời và chúng sanh ý niệm thú hướng việc gì? Cầu nguyện điều gì?' Từ kiếp đó đến ngày nay, Ta không thấy có một người âm cùng giống nhau. Thích-đề-hoàn-nhân nên biết, chúng sanhthế gian khởi tưởng điên đảo. Vô thường thì khởi tưởng là thường, vô lạc thì khởi tưởng là lạc, vô ngã thì khởi tưởng là hữu ngã, bất tịnh thì tưởng là tịnh, đường chánh tưởng là đường tà, điều ác tưởng là điều phước, điều phước tưởng là điều ác.

Do phương tiện này nên biết, các loài chúng sanh, căn tánh của chúng khó lường, tánh hạnh mỗi mỗi khác nhau. Nếu khiến chúng sanh hết thảy đồng một tư tưởng, không có nhiều tư tưởng, ắt không thể biết chín nơi cư trú của chúng sanh, cũng khó phân biệt chín nơi cư trú của chúng sanh. Nơi dừng trụ của thần thức cũng khó hiểu biết rõ, cũng lại không biết có tám đại địa ngục, đường dẫn đến súc sanh cũng khó biết, không phân biệtđịa ngục khổ, không biết sự hòa quý của bốn dòng họ, không biết con đường dẫn đến A-tu-la, cũng không biết cõi trời Ba mươi ba, nếu như hết thảy đồng một tâm. Nên biết cõi trời Quang Âm là do chúng sanh có bao nhiêu loài, tưởng niệm cũng bấy nhiêu thứ.

Cho nên biết có chín nơi cư trú của chúng sanh, có chín nơi thần thức dừng trụ; biết có tám đại địa ngục, ba ác đạo, cho đến cõi trời Ba mươi ba cũng lại như thế. Do phương tiện này biết các loại chúng sanh, căn tánh của họ không đồng nhau, việc làm mỗi người cũng khác.

Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân bạch Phật:

- Lời nói của Như Lai rất là kỳ diệu. Căn tánh của chúng sanh, hành động không giống nhau, tưởng niệm mỗi khác. Do chúng sanh kia hành động không giống nhau, cho đến xanh, vàng, trắng, đen, dài, ngắn không đồng.

Bạch Thế Tôn, chư Thiên nhiều việc, con muốn trở về cõi Trời.

Phật bảo Thích-đề-hoàn-nhân:

- Nên biết đúng thời.

Thích-đề-hoàn-nhân liền từ tòa đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, lui ra.

Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Chín nơi, thí, khổng tước,
Hệ phước, cội gốc pháp,
Bệnh, cúng dường, Bàn-đặc,
Phạm hạnh, bao nhiêu tưởng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12443)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10313)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12294)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11591)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28752)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 11989)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12963)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11399)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12316)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17385)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52928)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35427)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21322)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10647)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19175)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12371)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25954)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13285)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14329)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16040)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13683)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16802)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17504)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13096)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12493)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11568)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11557)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14466)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20379)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18915)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19504)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18571)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12149)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12270)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13808)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14943)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15005)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13945)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15485)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11357)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17126)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14909)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20126)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14581)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13798)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11670)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15008)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12956)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22826)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14524)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11606)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13129)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16836)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18307)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11914)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11470)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15810)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12832)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18860)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18360)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant