Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

48-1. Phẩm Thập bất thiện (1)

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10681)
48-1. Phẩm Thập bất thiện (1)

KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Việt dịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3

XXXXVIII.1 Phẩm Thập Bất Thiện (1)

1. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếu có chúng sanh làm việc sát sanh, sát sanh cùng khắp, gieo trồng tội báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì nếu sanh trong loài Người chúng sanh ấy thọ mạng sẽ rất ngắn. Vì sao? Vì đã hại mạng người khác.

Nếu có chúng sanh trộm cắp tài vật của người khác, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người thường, sẽ bị nghèo khổ, thiếu thốn, ăn không no, áo không kín thân, đều do tội trộm cắp. Cưỡng đoạt tài vật tức là làm đoạn dứt mạng sống người khác.

Nếu có chúng sanh thích dâm dục, gieo trồng tội báo trong ba đường ác, thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ gặp gia đình không trinh lương, lén lút làm việc dâm dục.

Nếu có chúng sanh nói dối, gieo trồng tội báo địa ngục, thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ bị người khinh chê, nói ra không ai tin, bị người coi rẻ. Vì sao? Ðều do đời trước nói dối mà ra.

Nếu có chúng sanh nói hai lưỡi, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, tâm thường không định, thường lo buồn. Vì sao? Vì người ấy đã tung ra lời hư dối với đôi bên.

Nếu có chúng sanh nói lời thô ác, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ có dáng vẻ xấu xí, thường ưa chửi mắng. Vì sao? Vì người ấy nói lời không chuyên chánh nên bị như thế.

Nếu có chúng sanh gây đấu loạn đôi bên, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ có nhiều oán thù, người thân bị ly tán. Vì sao? Ðều do đời trước gây đấu loạn mà ra.

Nếu có chúng sanh tật đố, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, sẽ bị thiếu y phục. Vì sao? Vì người ấy ưa tật đố.

Nếu có chúng sanh khởi lòng hại người, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người, thường sẽ gặp nhiều hư vọng, không hiểu lý chơn thật, tâm rối loạn không định. Vì sao? Ðều do đời trước sân giận, không có lòng nhân.

Nếu có chúng sanh hành tà kiến, gieo trồng tội báo trong ba đường ác thì nếu chúng sanh ấy sanh trong loài Người sẽ phải ở chỗ man rợ, không sanh chốn thủ đô, không gặp được Tam bảo, không nghe nghĩa lý đạo pháp; hoặc là bị câm, điếc, mù, ngọng, thân hình không đoan chánh, không biết rõ nẻo thú hướng của pháp lành, pháp dữ. Vì sao? Do đời trước không có lòng tin, cũng không tin Sa-môn, Bà-la-môn, cha mẹ, anh em.

Các Tỳ-kheo nên biết! Do quả báo của mười điều ác này, nên gặp những điều ương lụy như thế. Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên lìa mười điều ác, tu hành chánh kiến. Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn vào ngày rằm thuyết giới, cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đến giảng đường Phổ Hội. Bấy giờ, Thế Tôn lặng yên quan sát trong thánh chúng, rồi im lặng không nói.

Khi ấy A-nan bạch Phật:

- Hôm nay, đại chúng thảy đều vân tập tại giảng đường, cúi xin Thế Tôn nên thuyết giới cấm cho chúng Tỳ-kheo.

Thế Tôn lại im lặng không nói. Khi ấy, A-nan phút chốc lại bạch Phật:

- Nay chính đúng thời, nên thuyết giới cấm, đầu đêm gần hết.

Thế Tôn cũng im lặng không nói. Giây lát sau, A-nan lại bạch Phật:

- Giữa đêm gần hết, chúng Tăng mệt mỏi. Cúi xin Thế Tôn đúng thời thuyết giới.

Thế Tôn cũng im lặng không nói. Giây lát sau, A-nan, lại bạch Phật:

- Cuối đêm gần hết, cúi xin Thế Tôn đúng thời thuyết giới.

Phật bảo A-nan:

- Trong chúng có người không thanh tịnh, nên Ta không thuyết giới. Nay cho phép Thượng tọa thuyết giới cấm, nếu Thượng tọa không kham thuyết giới, cho phép người trì luật thuyết giới cấm, nếu không có người trì luật, thì ai có thể tụng giới thông suốt, gọi đến khiến thuyết giới. Từ nay về sau, Như Lai không thuyết giới, vì trong chúng có người không thanh tịnh, nếu Như Lai thuyết giới trong đây, đầu người ấy bị vỡ làm bảy phần, như trái thù la không khác.

Khi ấy, A-nan buồn khóc, nói lên rằng:

- Hôm nay Thánh chúng côi cút. Chánh pháp Như Lai xa lìa mau chóng thế sao! Người không thanh tịnh mau ra khỏi nơi đây!

Khi ấy, Ðại Mục-kiền-liên bèn khởi nghĩ: 'Trong chúng này, có những người nào hủy pháp khiến Như Lai không thuyết giới cho trong chúng?'. Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên nhập định, quán khắp lỗi lầm trong tâm chúng. Tôn giả thấy hai Tỳ-kheo Mã SưMãn Túc ở trong chúng, Tôn giả bèn rời chỗ ngồi đến chỗ hai Tỳ-kheo ấy, rồi nói:

- Các Thầy mau rời khỏi chỗ này. Ðức Như Lai cơ hiềm các Thầy nên không thuyết giới cấm.

Bấy giờ, hai Tỳ-kheo im lặng không trả lời. Tôn giả Mục-kiền-liên nói ba lần:

- Các Thầy mau rời khỏi, không nên ở tại đây.

Hai Tỳ-kheo ấy im lặng không đáp. Lúc đó Mục-kiền-liên bèn nắm tay hai Thầy ấy lôi ra khỏi cửa, đóng cửa lại rồi mới đến bạch Phật:

- Tỳ-kheo không thanh tịnh đã đưa ra ngoài, cúi xin Thế Tôn đúng thời thuyết giới.

Phật bảo Mục-kiền-liên:

- Thôi, thôi! Này Mục-kiền-liên! Như Lai không nói giới cho các Tỳ-kheo nữa. Như Lai không nói hai lời. Tôn giả nên trở về chỗ ngồi.

Tôn giả Mục-kiền-liên lại bạch Phật:

- Nay trong chúng này đã sanh lỗi lầm, con không kham làm phép Duy-na, cúi xin Thế Tôn sai người khác.

Bấy giờ, Thế Tôn im lặng chấp nhận. Tôn giả Mục-kiền-liên cúi đầu lễ chân Phật, trở về chỗ ngồi của mình.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan bạch Phật:

- Khi đức Phật Tỳ-bà-thi xuất hiện ở đời, Thánh chúng nhiều ít? Trải qua bao lâu mới sanh lỗi lầm? Cho đến thời Phật Ca-diếp, đệ tử nhiều ít? Vì sao thuyết giới.

Phật dạy A-nan:

- Chín mươi mốt kiếp đã qua, có đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiệnthế gian. Bấy giờ Thánh chúng có ba hội. Hội thứ nhất có một trăm mười sáu vạn tám ngàn Thánh chúng, hội thứ hai có mười sáu vạn Thánh chúng, hội thứ ba có mười vạn Thánh chúng, đều là bậc A-la-hán. Ðức Phật Ty-bà-thi thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Trong một trăm năm đầu Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật Ty-bà-thi thường dùng một bài kệ làm giới cấm:

Nhẫn nhục là bậc nhất,

Phật nói vô vi hơn,

Không do cạo râu tóc,

Làm Sa-môn, hại người.

Bấy giờ, đức Phật Tỳ-bà-thi dùng một bài kệ này, trong một trăm năm làm cấm giới. Về sau, trong chúng sanh lỗi lầm, đức Phật bèn lập ra giới cấm.

Lại, trong ba mươi mốt kiếp qua, có đức Phật hiệu là Thi-khí Như Lai Chí Nhơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Thời bấy giờ, có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười sáu vạn chúng, hội thứ hai có mười bốn vạn Thánh chúng, hội thứ ba có mười vạn Thánh chúng. Thời đức Phật Thi-khí, trong tám mươi năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật cũng nói một bài kệ:

Nếu mắt thấy tà vạy,
Người trí giữ không đắm,
Xả bỏ các điều ác,
trí tuệ ở đời.

Bấy giờ, đức Phật Thi-khí trong tám mươi năm chỉ có một bài kệ này. Về sau, trong chúng có lỗi lầm, Phật bèn lập cấm giới. Ðức Phật Thi-khí thọ bảy vạn tuổi.

Trong kiếp ấy cũng có Phật xuất hiệnthế gian, hiệu là Tỳ-xá-la-bà, cũng có ba hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười vạn chúng, đều là bậc A-la-hán, hội thứ hai có tám vạn A-la-hán, hội thứ ba có bảy vạn A-la-hán, các lậu đã hết. Thời Phật Tỳ-xá-la-bà, trong bảy mươi năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, đức Phật dùng một bài kệ rưỡi làm giới cấm:

Không hại cũng không quấy,
Vâng giữ theo đại giới,
Ăn uống biết vừa đủ,
Giường, tòa cũng như vậy.
Chuyên tâmchí thành,
Là lời chư Phật dạy.

Trong bảy mươi năm, đức Phật ấy dùng kệ này làm giới cấm; về sau trong chúng có lỗi, mới lập giới cấm. Ðức Phật Tỳ-xá-la-bà thọ bảy vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp ấy, có Phật xuất hiện hiệu là Câu-lưu-tôn xuất hiệnthế gian. Thời ấy có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có bảy vạn Thánh chúng đều là A-la-hán, hội thứ hai có sáu vạn A-la-hán. Thời đức Phật Câu-lưu-tôn, sáu mươi năm đầu, trong chúng thanh tịnh không có lỗi. Bấy giờ, đức Phật kia dùng hai bài kệ làm giới cấm:

Ví như ong hút hoa,
Sắc hoa rất sạch, thơm,
Lấy vị ngọt cho người,
Ðạo sĩ vào làng xóm.
Không chê bai việc người,
Cũng không nhìn, phải quấy,
Chỉ tự quán thân, hạnh,
Xem kỹ chánh, không chánh.

Ðức Phật Câu-lưu-tôn trong sáu mươi năm đầu nói hai bài kệ này để làm giới cấm. Từ đây về sau có người phạm giới, mới lập giới cấm. Ðức Phật Câu-lưu-tôn thọ sáu vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp ấy, có đức Phật xuất hiện, hiệu là Câu-na-hàm-mâu-ni Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác. Thời ấy có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có mười sáu vạn Thánh chúng, đều là bậc A-la-hán, hội thứ hai có bốn mươi vạn Thánh chúng, đều là A-la-hán. Thời đức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, trong bốn mươi năm đầu trong chúng không tỳ vết, đức Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm:

Giữ chí chớ khinh lờn,
Nên học đạo vắng lặng,
Bậc Hiền không lo buồn,
Nên giữ tâm tịch diệt.

Trong bốn mươi năm đầu, đức Phật ấy nói một bài kệ này làm cấm giới, về sau trong chúng có người tỳ vết, mới lập giới cấm. Ðức Phật Câu-na-hàm-mâu-ni thọ bốn vạn tuổi.

Trong Hiền kiếp ấy, có Phật hiệu Ca-diếp xuất hiện. Ðức Phật cũng có hai hội Thánh chúng. Hội thứ nhất có bốn mươi vạn chúng, hội thứ hai có ba mươi vạn chúng, đều là A-la-hán. Trong hai mươi năm đầu, trong chúng không có người phạm giới, đức Phật thường dùng một bài kệ làm giới cấm:

Chớ làm tất cả ác,
Nên vâng làm điều lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Là lời chư Phật dạy.

Trong hai mươi năm đầu, đức Phật ấy nói một bài kệ này làm cấm giới, về sau có người phạm giới mới lập giới cấm. Phật Ca-diếp thọ hai vạn tuổi.

Nay Ta, Như Lai xuất hiện ở đời, có một hội Thánh chúng là một ngàn hai trăm năm mươi người. Trong mười hai năm đầu không có người phạm giới, Ta dùng một bài kệ làm giới cấm:

Giữ miệng, ý thanh tịnh,
Thân hành cũng thanh tịnh,
Thanh tịnh ba hạnh này,
Tu hành đạo tiên nhơn.

Trong mười hai năm đầu, Ta nói một bài kệ này làm giới cấm, sau có người phạm luật, dần dần có hai trăm năm mươi giới. Từ nay về sau chúng Tăng nhóm họp, nên phải bạch đúng theo luật: 'Chư Hiền cùng nghe, nay là ngày mười lăm thuyết giới, nay tăng bằng lòng cho chúng Tăng hòa hợp thuyết giới'.

Thưa như thế xong, nếu có Tỳ-kheo nói gì thì không nên thuyết giới; nếu tất cả cùng im lặng, không ai nói gì thì mới thuyết giới. Cho đến sau khi nói bài tựa giới kinh rồi, nên hỏi rằng: 'Thưa chưa Hiền, ai không thanh tịnh?'

Hỏi như thế ba lần: 'Ai không thanh tịnh'. Người thanh tịnh thì im lặng giữ gìn.

Bởi vì tuổi thọ của người ngày nay rất ngắn, tuổi thọ cao nhất không quá trăm năm. Thế nên, A-nan! Nên khéo thọ trì điều Ta dạy.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

- Các đức Phật ở thời quá khứ lâu xa, tuổi thọ dài lâu, ít người phạm giới, không có tỳ vết. Còn ngày nay, người thọ mạng đã ngắn ít, không quá trăm năm. Sau khi các Phật đời quá khứ diệt độ, pháp tồn tại ở đời bao lâu?

Phật bảo A-nan:

- Sau khi các đức Phật quá khứ diệt độ, pháp không trụ lâu ở đời.

A-nan bạch Phật:

- Nếu như sau khi Như Lai diệt độ, Chánh pháp trụ đời bao lâu?

Phật bảo A-nan:

- Sau khi Ta diệt độ, Chánh pháp sẽ trụ đời lâu dài. Sau khi Phật Ca-diếp diệt độ, Chánh pháp để lại trụ bảy ngày. Này A-nan! Nay Thầy nghĩ rằng đệ tử của Như Lai ít, chớ nghĩ như thế. Hàng đệ tử của Ta ở phương Ðông nhiều vô số ức ngàn, đệ tử ở phương Nam vô số ức ngàn. Cho nên, A-nan, hãy nghĩ như vầy: 'Phật Thích-ca của ta thọ mạng rất dài lâu'. Vì sao? Nhục thân tụy diệt độ nhưng pháp thân tồn tại. Ðây là nghĩa ấy, nên ghi nhớ điều này.

Bấy giờ, A-nan và các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3. Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải chấm đất, bạch Phật:

- Trí nhiệm mầu của đức Như Lai, không việc gì không biết. Trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai Ngài thảy đều biết rõ; chư Phật đời quá khứ tên họ, danh hiệu, đệ tử Bồ-tát theo tùy tùng bao nhiêu, thảy đều biết hết, trong một kiếp, trăm kiếp hay vô số kiếp thảy đều quán sát biết hết, Ngài cũng biết tên họ của vua chúa, đại thần, nhân dân, thảy đều có thể phân biệt; như hiện tại nay có bao nhiêu cõi nước cũng biết rõ ràng. Về đời tương lai xa, khi Phật Di-lặc Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác xuất hiện, con muốn nghe sự biến hóa của đức Phật ấy, số đệ tử tùy tùng, cảnh giới Phật phồn thịnh, trải qua bao nhiêu năm?

Phật bảo A-nan:

- Thầy hãy về chỗ ngồi, lắng nghe Ta nói. Khi Phật Di-lặc ra đời, cõi nước giàu có, bao nhiêu đệ tử. Thầy hãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ trong tâm.

Khi ấy, A-nan vâng lời Phật dạy, liền trở về chỗ ngồi.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

- Về đời tương lai rất xa, ở cõi này sẽ có một đô thị tên Kê Ðầu, chiều Ðông Tây rộng mười hai do-tuần, chiều Nam Bắc rộng bảy do-tuần, đất đai phong phú, nhân dân đông đúc đầy đường. Bấy giờ, trong thành ấy có một Long vương tên Thủy Quang, đêm rưới mưa thơm, ngày thì quang đãng. Khi ấy, trong thành Kê Ðầu cũng có một La-sát tên Diệp Hoa, hành động đúng pháp, không trái chánh giáo, chờ mọi người ngủ xong, mới dọn dẹp các vật nhơ cấu, lại dùng nước thơm rưới trên đất, rất là thơm sạch.

A-nan nên biết! Bấy giờ cõi Diêm-phù-đề trong khoảng Ðông Tây Nam Bắc mười vạn do tuần, các thứ núi sông, vách đá đều tự tiêu diệt, nước bốn biển lớn đều đổ về một phía. Ðất đai cõi Diêm-phù-đề rất bằng phẳng ngay ngắn như gương sáng. Các thứ ngũ cốc trong cõi nhiều và rẻ, nhân dân đông đúc, nhiều trân bảo, làng xóm kề cận nhau, tiếng gà gáy nối tiếp. Thời ấy, những loại cây trái dở đều khô chất, loại dơ xấu cũng tự tiêu diệt, chỉ còn những cây trái ngon ngọt đẹp đẽ, mùi hương đặc biệt đều nảy sanh ở đất ấy. Thời tiết khí hậu điều hòa, bốn mùa thuận tiết, thân người không có trăm lẻ tám tai họa như tham dục, sân nhuế, ngu si, lười biếng... Lòng người giống nhau, đều đồng một ý, gặp nhau vui vẻ nói lời lành, ngôn ngữ một thứ không sai biệt, như người ở cõi Uất-đơn-việt. Người cõi Diêm-phù-đề bấy giờ lớn nhỏ đều đồng một âm thanh, không có nhiều sai biệt.

Thời ấy, người nam nữ, vừa muốn đại tiểu tiện, đất liền tự nhiên nứt ra, xong rồi đất lại khép vào. Bấy giờ, cõi Diêm-phù-đề tự nhiên sanh ra lúa, không vỏ trấu, rất thơm ngon, ăn vào không bệnh khổ. Còn những thứ vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách rải rắc trên mặt đất, không ai bảo nhau rằng: 'Người thuở trước vì những của báu này mà giết hại nhau, bị giam cầm lao ngục, khổ sở nhiều thứ. Bây giờ nó chỉ như ngói gạch, không ai lấy'.

Bấy giờ, pháp vương xuất hiện tên Nhượng-khư, dùng Chánh pháp trị dân, có đủ bảy báu. Bảy báu là: xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, ngọc nữ báu, điển binh báu, đại thần thủ tạng báu. Ðó là bảy báu. Nhà vua thống lãnh Diêm-phù-đề, không dùng dao gậy mà người tự nhiên hàng phục. A-nan! Lúc ấy có bốn kho châu báu lớn, kho báu thứ nhất tên Càn-đà-việt-quốc-thi-la-sát, có nhiều vật châu báu lạ thường không thể tính kể. Kho lớn thứ hai tên Di-thê-la-quốc-ban-trừu cũng có nhiều trân bảo. Kho thứ ba tên Tu-lại-thác-đại-quốc, cũng nhiều trân bảo. Kho báu thứ tư tên Ba-la-nại-nhượng-khư có nhiều trân bảo không thể tính kể. Bốn kho báu lớn này tự nhiên xuất hiện, khi ấy các người giữ kho đều đến tâu vua:

- Cúi xin Ðại vương đem các vật trong kho báu bố thí cho người nghèo cùng.

Khi ấy, vua Nhượng-khư được các kho báu này, cũng không quan tâm đến, ý không tưởng tài vật. Bấy giờ, cõi Diêm-phù-đề trên cây tự nhiên sanh y phục, mềm mại nhu nhuyễn, người đến lấy mặc, như người cõi Uất-đơn-việt hiện nay, trên cây tự nhiêny phục.

Nhà vua có một đại thần tên Tu-phạm-ma, là bạn từ thuở bé của nhà vua, nhà vua rất thương kính. Dung mạo của đại thần đoan chánh, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không già không trẻ. Ðại thần Tu-phạm-na có phu nhân tên Phạm-ma-việt, đặc biệt hơn hẳn các ngọc nữ, như cung phi trời Ðế Thích, miệng phát ra mùi thơm hoa ưu-bát, thân có mùi thơm chiên-đàn, hoàn toàn không có tám mươi bốn trạng thái của người nữ, cũng không bệnh, ý không tán loạn. Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc ở cung trời Ðâu-suất quan sát cha mẹ không trẻ không già, liền giáng thần hạ sanh từ hông bên phải, như Ta hiện nay sanh từ hông bên phải, Bồ-tát Di-lặc cũng thế. Chư thiên cõi trời Ðâu-suất đều xướng rằng: 'Bồ-tát Di-lặc đã hạ sanh'. Khi đó, đại thần Tu-phạm-ma bèn đặt tên con là Di-lặc. Công tử có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân hình, thân màu hoàng kim.

Thời bấy giờ nhân dân thọ mạng dài lâu, không bệnh, đều thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng. bồ-tát Di-lặc ở nhà không bao lâu, bèn xuất gia học đạo, lúc đó cách thành Kê Ðầu không xa, có một cội đạo thọ tên Long Hoa, cao một do-tuần, rộng năm trăm bộ. Bồ-tát Di-lặc ngồi dưới cội cây ấy thành đạo quả Vô thượng. Vào nửa đêm ấy, Di-lặc xuất gia, ngay đêm đó thành đạo Vô thượng. Khi ấy, ba ngàn đại thiên cõi nước rung động sáu cách, Ðịa thần mỗi bảo nhau rằng: 'Nay Bồ-tát Di-lặc đã thành Phật', truyền đến cung trời Tứ thiên vương nghe: 'Di-lặc đã thành Phật đạo', truyền dần đến trời Ba mươi ba, trời Diêm-ma, trời Ðâu-suất, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại, tiếng vang lần lượt đến Phạm thiên: 'Di lặc đã thành Phật'.

Bấy giờ, Ma vương tên Ðại Tướng dùng pháp trị hóa nghe danh Như Lai, âm thanh giáo hóa, vui mừng phấn khởi không thể tự dừng, bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ. Khi ấy, Ma vương đem vô số chư thiên cõi dục, đến chỗ Phật Di-lặc cung kính lễ bái. Ðức Phật Di-lặc vì chư Thiên dần dần nói pháp vi diệu, những luận như luận bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu.

Phật Di-lặc thấy mọi người đã phát tâm hoan hỷ, Ngài liền đem những pháp mà chư Phật thường nói như: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo vì hàng Trời, Người rộng phân biệt nghĩa ấy. Bấy giờ có tám vạn bốn ngàn Thiên tử, ngay chỗ ngồi dứt sạch trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Ma Vương Ðại Tướng bảo mọi người trong cõi nước ấy rằng:

- Các Người mau xuất gia. Vì sao? Nay đức Phật Di-lặc đã qua bờ kia, cũng sẽ đưa các Người sang bờ kia.

Bấy giờ trong thành Kê Ðầu có trưởng giả tên Thiện Tài, nghe giáo lệnh của Ma vương, và nghe âm thanh Phật, bèn đem tám vạn bốn ngàn người đến chỗ Phật Di-lặc, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Phật Di-lặc dần dần vì nói pháp vi diệu. Ðó là luận về bố thí, luận trì giới, luận sanh thiên, dụng tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu. Bấy giờ, Phật Di-lặc thấy mọi người đã khai mở tâm ý, bèn đem các pháp chư Phật thường nói như: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo vì mọi người giảng rộng nghĩa ấy. Tám vạn bốn ngàn người đến chỗ ngồi sạch hết trần cấu được pháp nhãn tịnh. Khi ấy, Thiện Tài cùng tám vạn bốn ngàn người liền đến trước bạch Phật, cầu xin xuất gia, khéo tu Phạm hạnh, đều thành A-la-hán. Bấy giờ, hội thứ nhất của Phật Di-lặc có tám vạn bốn ngàn A-la-hán.

Khi ấy, vua Nhượng-khư nghe Bồ-tát Di-lặc đã thành Phật, bèn đến chỗ Phật muốn được nghe pháp. Thời Phật Di-lặc vì vua nói pháp, phần đầu lành, phần giữa lành, phần sau đều lành, nghĩa lý sâu xa. Lại thời khác, vua lập thái tử, tặng châu báu cho người thợ cạo, lại đem tạp bảo cho các Phạm chí, dẫn tám vạn bốn nghìn người đến chỗ Phật, xin làm Sa-môn, đều thành đạo quả, chứng A-la-hán.

Khi ấy, trưởng giả Tu-phạm-ma nghe Di-lặc đã thành Phật, đem tám vạn bốn nghìn chúng Phạm chí, đến chỗ Phật xin làm Sa-môn, đều đắc quả A-la-hán, chỉ trừ một mình Tu-phạm-ma, đoạn ba kết sử, chấm dứt mé khổ. Khi ấy, Phật mẫu Phạm-ma-việt, lại đem tám vạn bốn ngàn thể nữ đến chỗ Phật, xin làm Sa-môn. Khi ấy, các người nữ đều đắc quả A-la-hán, chỉ một mình Phạm-ma-việt, đoạn ba kiết sử thành Tu-đà-hoàn. Bấy giờ, các phu nhân dòng Sát-lợi, nghe Phật Di-lặc xuất hiện thế gian, thành Ðẳng Chánh Giác, vài ngàn vạn chúng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, mỗi mỗi phát tâm cầu làm Sa-môn, xuất gia học đạo, hoặc có người vượt thứ lớp mà chứng đạo, hoặc có người không chứng. A-nan! Bấy giờ những người không vượt thứ lớp chứng đạo đều là người vâng theo pháp, chán ghét tất cả tưởng không vuithế gian, khi ấy Phật Di-lặc sẽ nói giáo lý Tam thừa. Như nay, trong hàng đệ tử Ta, Ðại Ca-diếp thực hành mười hai hạnh đầu đà, ở nơi chư Phật quá khứ khéo tu Phạm hạnh, và sẽ thường phụ tá Phật Di-lặc giáo hóa nhân dân.

Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp cách chỗ Phật không xa, ngồi kiết-già chánh thân, chánh ý buộc niệm ở trước. Phật bảo Tôn giả Ca-diếp:

- Nay Ta tuổi đã già suy, hơn tám mươi. Song Như Lai có bốn đệ tử Thanh văn lớn có khả năng du hóa, trí tuệ vô tận, đầy đủ các đức. Những ai là bốn? Ðó là Tỳ-kheo Ðại Ca-diếp, Tỳ-kheo Quân-đồ-bát-hán, Tỳ-kheo Tân đầu-lư, Tỳ-kheo La-vân. Bốn Thanh văn lớn các Thầy! Không nên nhập Niết-bàn, đợi pháp Ta mất hẳn, sau mới vào Niết-bàn. Ðại Ca-diếp cũng không nên vào Niết-bàn, nên đợi đến Di-lặc ra đời. Vì sao? Ðệ tử do Phật Di-lặc hóa độ đều là đệ tử của Phật Thích-ca Văn, do Ta hóa độ để lại, được sạch hữu lậu. Tại nước Ma-kiệt, thôn Tỳ-đề, Ðại Ca-diếp sẽ trụ trong núi xứ ấy đến lúc Phật Di-lặc đem vô số ngàn chúng vây quanh trước sau đến trong núi này. Nương ân đức Phật, các Quỷ thần vì Phật mở cửa, khiến thấy được Ca-diếp tọa Thiền trong động.

Khi ấy, Phật Di-lặc đưa tay mặt chỉ vào Ca-diếp, bảo với mọi người:

- 'Ðây là đệ tử của Phật Thích-ca từ quá khứ lâu xa, tên là Ca-diếp. Hiện tại, tu hạnh đầu đà đệ nhất'.

Mọi người thấy rồi khen 'chưa từng có', vô số trăm ngàn chúng sanh chấm dứt các trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Hoặc lại có chúng sanh đã thấy thân Ca-diếp rồi. Ðây gọi là hội ban đầu, chín mươi sáu ức người đều đắc quả A-la-hán, những người ấy đều là đệ tử của Ta. Vì sao? Vì thảy đều do nhận lãnh sự giáo hóa của Ta mà nên. Cũng do nhân duyên bốn món cúng dường, bố thí, nhân ái, lợi người, lợi đồng nhau.

A-nan! Bấy giờ Phật Di-lặc sẽ đắp y Tăng-già-lê của Ca-diếp, khi đó thân thể của Ca-diếp nghiễm nhiên tan rã, Di-lặc lại đem các thứ hương hoa cúng dường Ca-diếp. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn đều có tâm cung kính đối với Chánh Pháp, Di-lặc cũng do Chánh pháp hóa mà Ta nhận được, được thành đạo Vô Thượng Chánh Chơn.

A-nan nên biết! Hội thứ hai của Phật Di-lặc có chín mươi bốn ức người, đều là bậc A-la-hán, cũng là đệ tử của Ta để lại, cúng dường bốn thứ cần dùng mà được như thế.

Hội thứ ba của Di-lặc có chín mươi hai ức người, là bậc A-la-hán, cũng là đệ tử thọ pháp Ta để lại. Bấy giờ danh xưng của Tỳ-kheo đều gọi là đệ tử Từ Thị, như Ta ngày nay, hàng Thanh văn đều xưng là đệ tử Thích-ca.

Bấy giờ, Phật Di-lặc vì các đệ tử thuyết pháp: 'Tỳ-kheo các Thầy nên suy nghĩ về tưởng vô thường, tưởng vui có khổ, tưởng chấp có ngã và vô ngã, tưởng thật có, rổng không, tưởng sắc biến đổi, tưởng bầm xanh, tưởng sình trương, tưởng ăn không tiêu, tưởng ứ máu, tưởng tất cả đều không vui của thế gian. Vì sao? Tỳ-kheo nên biết, mười tưởng nầy đều là do Phật Thích-ca Văn từ quá khứ đã nói cho các Thầy, khiến dứt sạch hữu lậu tâm được giải thoát. Hoặc trong chúng này có đệ tử của Phật Thích-ca thời quá khứ từng tu Phạm hạnh, mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca vâng giữ pháp ấy, mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca cúng dường Tam Bảo mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tu căn lành trong khoảng khảy móng tay mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tu Tứ vô lượng tâm, mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca thọ giữ năm giới, tam tự quy y mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca tạo dựng tháp miếu, chùa viện mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca sửa sang chùa cũ mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca thọ giới bát quan trai mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca dùng hương hoa cúng đường mà đến đây; hoặc ở nơi Phật kia, nghe Phật pháp buồn khóc rơi lệ mà đến chỗ Ta; hoặc ở nơi Phật Thích-ca một lòng nghe pháp mà đến chỗ Ta; hoặc suốt đời khéo tu Phạm hạnh mà đến chỗ Ta; hoặc đã viết kinh, đọc tụng mà đến chỗ Ta. Hoặc đã thừa sự cúng dường mà đến chỗ Ta'.

Khi ấy, Phật Di-lặc bèn nói kệ này:

Tăng trưởng giới, văn, đức.
Thiền và nghiệp tư duy,
Khéo tu về Phạm hạnh,
Mà đến chỗ của Ta.
Siêng, thí tâm hoan hỷ,
Tu hành, cội nguồn tâm,
Ý không tưởng nhiều việc,
Ðều đến chỗ của Ta.
Hoặc đến chỗ của Ta.
Hoặc phát tâm bình đẳng,
Thừa sự nơi chư Phật,
Cúng thức ăn Thánh chúng,
Ðều đến chỗ của Ta.
Hoặc tụng giới, khế kinh,
Khéo tập, nói cho người,
Mạnh mẽ nơi gốc pháp,
Nay đến chỗ của Ta.
Dòng Thích khéo giáo hóa,
Cúng dường các Xá-lợi,
Thừa sự pháp cúng dường,
Nay đến chỗ của Ta.
Nếu có biên chép kinh,
Tuyên đọc trên án thư,
Có người cúng dường kinh,
Ðều đến chỗ của Ta.
Lụa, vải và các thứ,
Cúng dường nơi chùa tháp,
Tự xưng: Nam-mô Phật,
Ðều đến chỗ của Ta.
Cúng dường Phật hiện tại,
Và chư Phật quá khứ,
Thiền định rất chơn chánh,
Cũng không có tăng giảm.
Cho nên nơi Phật pháp,
Thừa sự nơi Thánh chúng,
Một lòng thờ Tam Bảo,
Ðều đến chỗ vô vi.

A-nan, nên biết! Di-lặc Như Lai nói kệ này trong chúng kia. Bấy giờ trong chúng, hàng Trời, Người suy nghĩ mười tưởng này, mười một vạn vạn người sạch hết các trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Thời đức Phật Di-lặc, trong một ngàn năm, chúng Tăng không có lỗi. Bấy giờ Phật ấy thường dùng một bài kệ làm giới cấm:

Miệng, ý không làm ác,
Thân cũng chẳng phạm ác,
Nên trừ ba hạnh này,
Chóng thoát vực sanh tử.

Sau một ngàn năm, có người phạm giới Phật ấy bèn lập giới cấm. Phật Di-lặc sẽ thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, sau khi Phật nhập Niết-bàn, Pháp để lại tồn tại tám vạn bốn nghìn năm. Vì sao? Vì chúng sanh thời bấy giờ đều là lợi căn.

thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được gặp Phật Di-lặc và ba hội chúng Thanh-văn, cùng thành Kê Ðầu, vua Nhượng-khư, và bốn kho châu báu lớn, muốn ăn lúa thóc tự nhiên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết sanh cõi trời thì thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nên gắng sức tinh tấn, đừng sanh giải đãi, cũng nên cúng dường thừa sự các pháp sư, cúng dường các thứ danh hoa, hương thơm đừng để thiếu thốn. Như thế, A-nan, nên học điều này!

Bấy giờ, A-nan và đại chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33053)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6485)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11192)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30335)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30396)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12132)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11551)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12735)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34666)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52213)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10707)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10474)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10411)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13027)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16190)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21761)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9571)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7069)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12678)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16183)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16475)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13805)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16514)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12058)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14273)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9160)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11713)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11227)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16257)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14308)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16165)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12034)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15625)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11466)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13991)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11981)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12591)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14942)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14482)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20639)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20642)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14290)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20273)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17574)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13955)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31814)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11956)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant