Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 10: Phân biệt về Huệ

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8108)
Phẩm 10: Phân biệt về Huệ

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Quyển Mười

Phẩm 10: Phân biệt về Huệ

Hỏi: Thế nào là Huệ? Thế nào là tướng, vị, khởi, xứ, công đức và nghiã của Huệ? Có bao nhiêu công đức mới đắc được Bát-nhã? Có mấy loại Bát-nhã?

Đáp: Tâm ý nhìn sự vật đúng như hiện thấy, đó gọi là Huệ, là Bát-nhã. Lại nữa, như trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng) có nói, khởi ý phân biệt sự ích lợi với sự chẳng ích lợi, khởi lên ý trang nghiêm, đó gọi là Bát-nhã. (Bát-nhã, phiên âm chữ Phạn Prajna, chữ Pàli Panna, dịch nghiã là Trí huệ.)

Thế nào là Bát-nhã? Bát-nhã là trí huệ, lựa chọn pháp diệu tướng để quán sát; sự quán sát đó thông minh, suy nghĩ phân biệt thật rõ ràng, thấy được sự chuyển ngộ lớn dắt đến chánh trí (= trí hiểu biết chơn chánh và đúng đắn). Bát-nhã có sức mạnh (= huệ lực) như gậy gộc (= huệ trượng) như câu liêm (= huệ câu), phá tan được ngu si. Bát-nhã lại có nguồn gốc (= huệ căn), rực rỡ như ánh sáng, như ngọn đèn (= huệ quang, huệ minh, huệ đăng), lộng lẫy như cung điện (= huệ điện), qúi báu như bảo vật (= huệ bảo), để trạch pháp (= chọn pháp) theo đúng chánh kiến (ý kiến chơn chánh và đúng đắn).

Đạt đến Sự thật (= Chơn như) là tướng của Bát-nhã. Chọn lựa đúng là vị của Bát-nhã, tức là chức năng của Trí huệ. Chẳng hề ngu si, mê mờ là khởi của Bát-nhã, tức là sự phát khởi, sự bộc lộ, ra của Trí huệ. Bốn Chơn lý Nhiệm mầu (= Tứ Diệu đế) là xứ của Bát-nhã, tức là phạm vi hoạt động của Trí huệ. Lại nữa, tướng của Bát-nhã là hiểu thật rõ ràng, sáng tỏ. Vị hay chức năng của Bát-nhã là nhập vào Chánh pháp. Sự phát khởi của Bát-nhã, hay sự hiển lộ của Trí huệ là phá trừ được sự vô minh u ám. Xứ hay phạm vi hoạt động của Bát-nhã là bốn ngành của khoa biện luận.

Kể công đức của Bát-nhã, của Trí huệ, thì vô lượng công đức. Xin nghe bài kệ sau đây tóm lược lại các công đức:

Do Huệ, giới thanh tịnh,
Nhờ hai Huệ nhập Thiền.
Do Huệ tu theo Đạo,
Do Huệ thấy được Quả.
Bát-nhã là thắng thiện,
Huệ căn cao tuyệt đỉnh.
Mất Huệ thành ô uế,
Thêm Huệ thành cao thượng.
Huệ phá luận ngoại đạo,
Cắt ràng buộc thế pháp.
Người có Huệ, diệu khéo,
Lời lành khéo hiển bày.
Trong đời nầy, đời khác,
Nghe giải thoát khổ, vui,
Mọi nghiã cùng tinh tấn
Dõng mãnh, người có Huệ
Ắt thấy mọi pháp đó,
Lý Nhân duyên, Danh-Sắc,
Lời dạy trong Giáo pháp.
Ngôn ngữ trong Tứ Đế
cảnh giới Trí Huệ.
Nhờ Huệ trừ mọi ác
Tham ái, sân, vô minh.
Dùng Trí dứt sanh tử,
Trừ được việc khó trừ.

Hỏi: Nghiã của Huệ là gì?

Đáp: Nghiã của Trí huệ là khả năng đoạn trừ dứt sạch.

Có bao nhiêu công đức mới đắc được Huệ? Có tất cả mười một công đức: tầm cầu nghiã của khế kinh (= tu-đa-la), làm nhiều việc lành, cư trú nơi thanh tịnh, đình chỉ các loạn tưởng, quán tưởng về Bốn Chơn lý Nhiệm mầu (Tứ Diệu đế), hiểu rành các học thuật, tâm an trú, thường tại Thiền, dứt trừ các triền cái, xa lià người vô trí, thân cận người có trí huệ.

C mấy loại Trí Huệ? Có hai loại, có ba loại và có bốn loại.

Hỏi: Thế nào là hai loại Trí Huệ?

Đáp: Đó là Trí Huệthế gian, và Trí Huệ xuất thế gian. Huệ tương ứng với các đạo quả của bực Thánh là Huệ xuất thế. Chỗ còn lại tức là Huệ thế gian.

Huệ thế gian còn nhiều lậu hoặc (= sai lầm, thiếu sót), còn nhiều ràng buộc (= kết sử, các dục vọng, các tình cảm có tánh cách ràng buộc), còn nhiều trói chặt; Huệ đó là ngập lụt, là ách đè cổ, là nắp che đậy, là xúc chạm mạnh, là phát khởi, là phiền não.

Huệ xuất thế thì chẳng còn lậu hoặc, chẳng bị kết sử, chẳng bị trói buộc, chẳng bị ngập lụt, chẳng bị ách đè cổ, chẳng bị nắp che đậy, chẳng bị xúc chạm mạnh, chẳng phát khởi, chẳng phiền não.

Về ba loại Trí Huệ, đó là Tư huệ, Văn huệ, Tu huệ. Chẳng nghe theo người khác, nếu do nghiệp của mình mà trí khởi lên phù hợp với chơn lý, với công dụng, đó gọi là tư huệ. Do nghe theo người khác mà được huệ, đó gọi là văn huệ. Nếu tu nhập vào Tam-muội (= chánh định), đắc huệ, đó là tu huệ.

Lại nữa, thuộc về ba loại Huệ, có huệ đến, huệ đi, huệ phương tiện. Khi khởi ý lên hành động làm cho các việc chẳng lành phải lùi lại và các việc lành tăng thêm lên, đó là huệ đến, huệ đến làm lợi cho nghiệp lành của mình. Trái lại, nếu khởi ý lên hành động làm cho việc ác tăng lên mà việc thiện bị lui mất, đó là huệ đi, huệ đi mất, khiến cho nghiệp lành chẳng khởi. Còn huệ phương tiện là huệ biết dùng mọi phương tiện tốt để hành thiện.(= làm lành)

Lại nữa, thuộc về ba loại Huệ, có huệ tụ, huệ chẳng tụ, huệ vừa tụ vừa chẳng tụ. (Tụ, đây có nghiã là chất chứa, tích lũy lại) Huệ ở ba điạ hạt của nghiệp thiện, đó là huệ tụ. Huệ ở bốn đạo (từ Tu-đà-huờn đạo đến A-la-hán đạo), đó là huệ chẳng tụ. Huệ ở bốn đạo và bốn quả (hàng Thanh văn) và huệ ở ba điạ hạt của nghiệp thiện, đó gọi là huệ vừa tụ vừa chẳng tụ.

Về bốn loại Huệ, trí khởi tuỳ nghiệp, trí hợp với chơn lý, trí liên hệ đạo, trí liên hệ quả. Huệ khởi lên nơi mười lãnh vực của Chánh kiến, đó là trí khởi tùy nghiệp. Nếu thấy sự tập họp của các ấm (= uẩn), hoặc lẽ vô thường, khổ, vô ngã, khởi lên sự kham nhẫn, đó là trí hợp với chơn lý. Huệ khởi lên nơi bốn đạo (của hàng Thanh văn), đó là trí liên hệ đạo. Huệ khởi lên nơi bốn quả vị (hàng Thanh văn), đó là trí liên hệ quả.

Lại nữa, thuộc về bốn loại Huệ, huệ dục giới, huệ sắc giới, huệ vô sắc giới, huệ chẳng liên hệ. Huệ khởi lên về các việc thiện được xác định ở cõi dục giới, đó là huệ dục giới. Huệ khởi lên về các việc thiện được xác định ở cõi sắc giới, đó là huệ sắc giới. Huệ khởi lên về các việc thiện được xác định ở cõi vô sắc giới, đó là huệ vô sắc giới. Huệ khởi lên nơi các đạo và các quả, đó là huệ chẳng liên hệ.

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, pháp trí, tỉ trí, tha tâm trí đẳng trí. Huệ khởi lên nơi bốn đạo và nơi bốn quả, đó là pháp trí. Người toạ thiền tu pháp trí đó mà thành tựu được trí hiểu biết về quá khứ gần và xa, hiện tạivị lai gần và xa, đó là tỉ trí (tỉ = so sánh). Biết được tâm ý của kẻ khác, đó là tha tâm trí. Ngoại trừ ba trí vừa kể, chỗ còn lại được gọi là đẳng trí (đẳng = đồng đều).

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, có: (1) huệ do tụ mà chẳng do chẳng tụ, (2) huệ do chẳng tụ và chẳng do tụ, (3) huệ vừa do tụ vừa do chẳng tụ, (4) huệ chẳng do tụ và chẳng do chẳng tụ. Thiện huệ nơi dục giới thuộc loại thứ nhứt: huệ do tụ mà chẳng do chẳng tụ. Thiện huệ nơi bốn đạo (hàng Thanh văn) thuộc loại thứ hai: huệ do chẳng tụ và chẳng do tụ. Thiện huệ nơi sắc giớivô sắc giới thuộc loại thứ ba: huệ vừa do tụ vừa do chẳng tụ. Thiện huệ nơi bốn quả (hàng Thanh văn) và nơi ba điạ hạt của nghiệp thiện được xác định, thuộc loại thứ tư: huệ chẳng do tụ và chẳng do chẳng tụ.

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, có: (1) huệ do nhàm chán mà chẳng do thông đạt, (2) huệ do thông đạt mà chẳng do nhàm chán, (3) huệ do nhàm chán và do thông đạt, (4) huệ chẳng do nhàm chán cũng chẳng do thông đạt. Như thế, huệ do nhàm chán ham muốn nhưng chưa thông đạt được thần thông và Bốn Chơn lý Nhiệm mầu là huệ thuộc loại (1): huệ do nhàm chán mà chẳng do thông đạt. Hiện đã nhàm chán ham muốnđắc được thần thông, nhưng còn chưa thông đạt được Bốn Chơn lý Nhiệm mầu, đó là huệ thuộc loại (2), là Bát-nhã. Huệ do sự thông đạt mà chẳng do nhàm chán nơi bốn đạo (hàng Thanh văn) thì thuộc loại (3): huệ do nhàm chán và do thông đạt. Các huệ còn lại, chẳng do nhàm chán, chẳng do thông đạt, thuộc loại thứ tư.

Lại nữa, thuộc về bốn loại Huệ, có: (1) nghiã biện, (2) pháp biện, (3) từ biện, (4) lạc thuyết biện. Trí hiểu biết rõ ràng về nghiã, là nghiã biện (= phân biện về nghiã). Trí thông hiểu rõ ràng về Chánh pháp, là pháp biện. Trí hiểu biết từ ngữ, ngữ nguyên, là từ biện. Trí hiểu biết về chính sự hiểu biết, là lạc thuyết biện. Trí thông hiểu về nhân quả, là nghiã biện. Trí thông hiểu về nhân duyên, là pháp biện. Trí phân biện Chánh pháp (pháp biện) vừa là từ biện vừa là lạc thuyết biện.

Lại nữa, trí thông đạt Khổ đế (= Chơn lý về Khổ) và Diệt đế (= Chơn lý về sự tận diệt Khổ), còn được gọi là nghiã biện. Trí thông đạt Tập đế (= Chơn lý về nguyên nhân của Khổ) và Đạo đế (= Chơn lý về con đưởng dứt Khổ), còn gọi là pháp biện. Trí nói pháp rành rẽ, rõ cả nghiã và lời, còn gọi là từ biện. Trí hiểu rõ các sự hiểu biết còn gọi là lạc thuyết biện.

Lại nữa, thông hiểu Chánh pháphiểu rõ mười hai loại bộ kinh:

1) khế kinh hay trường hàng (= Tu-đa-la, Sutra),
2) trùng tụng (= Kỳ-dạ, Geya),
3) thọ ký (= Hoà-ca-la-na, Vyakarana),
4) phúng tụng (= Già-đà, Gathà),
5) tự thuyết (= Ưu-đà-na, Udana),
6) nhơn duyên (= Ni-đà-na, Nidàna),
7) thí dụ (= A-ba-đà-na, Avadàna),
8) bổn sự (= Y-đế-mục-đà-già, Itivrtaka),
9) bổn sanh (= Xà-đà-già, Jàtaka),
10) phương quảng (= Tỳ-phật-lược, Valpulya)
11) vị tằng hữu (= A-phù-đà-đạt-ma, Abhutahdharma)
12) luận nghị (= Ưu-ba-đề-xá, Upadesa).

Đó gọi là pháp biện. Hiểu rõ nghĩa các loại bộ kinh đó, thuyết giảng cho đầy đủ ý nghĩa, đó gọi là nghĩa biện. (...)

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, có: (1) Khổ trí, (2) Khổ tập trí, (3) Khổ diệt trí, (4) Đạo trí. Sự thông hiểu về Khổ là Khổ trí. Sự thông hiểu về nguyên nhân của Khổ là Khổ tập trí. Sự thông hiểu về sự tận diệt KhổKhổ diệt trí. Sự thông hiểu các việc tu hành tương ứng với các trí đó, là trí đầy đủ (cụ túc trí), tức là Đạo trí.

Phẩm 10: Phân biệt Huệ chấm dứt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14641)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11694)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12638)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10179)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11948)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15156)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10948)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10392)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12341)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16278)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14129)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11636)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14644)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11905)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16688)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11474)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12624)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11231)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11929)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51762)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15325)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13859)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11353)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12663)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13102)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17740)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12353)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12520)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54044)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14269)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9847)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57605)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14354)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19980)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13621)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15289)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17362)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13217)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11824)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13379)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14552)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12363)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12039)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 11958)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13175)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12414)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13531)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13231)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25374)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12098)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14419)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11744)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 41944)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28168)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38576)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14613)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12587)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16107)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant