Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 10: Phân biệt về Huệ

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8110)
Phẩm 10: Phân biệt về Huệ

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Quyển Mười

Phẩm 10: Phân biệt về Huệ

Hỏi: Thế nào là Huệ? Thế nào là tướng, vị, khởi, xứ, công đức và nghiã của Huệ? Có bao nhiêu công đức mới đắc được Bát-nhã? Có mấy loại Bát-nhã?

Đáp: Tâm ý nhìn sự vật đúng như hiện thấy, đó gọi là Huệ, là Bát-nhã. Lại nữa, như trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng) có nói, khởi ý phân biệt sự ích lợi với sự chẳng ích lợi, khởi lên ý trang nghiêm, đó gọi là Bát-nhã. (Bát-nhã, phiên âm chữ Phạn Prajna, chữ Pàli Panna, dịch nghiã là Trí huệ.)

Thế nào là Bát-nhã? Bát-nhã là trí huệ, lựa chọn pháp diệu tướng để quán sát; sự quán sát đó thông minh, suy nghĩ phân biệt thật rõ ràng, thấy được sự chuyển ngộ lớn dắt đến chánh trí (= trí hiểu biết chơn chánh và đúng đắn). Bát-nhã có sức mạnh (= huệ lực) như gậy gộc (= huệ trượng) như câu liêm (= huệ câu), phá tan được ngu si. Bát-nhã lại có nguồn gốc (= huệ căn), rực rỡ như ánh sáng, như ngọn đèn (= huệ quang, huệ minh, huệ đăng), lộng lẫy như cung điện (= huệ điện), qúi báu như bảo vật (= huệ bảo), để trạch pháp (= chọn pháp) theo đúng chánh kiến (ý kiến chơn chánh và đúng đắn).

Đạt đến Sự thật (= Chơn như) là tướng của Bát-nhã. Chọn lựa đúng là vị của Bát-nhã, tức là chức năng của Trí huệ. Chẳng hề ngu si, mê mờ là khởi của Bát-nhã, tức là sự phát khởi, sự bộc lộ, ra của Trí huệ. Bốn Chơn lý Nhiệm mầu (= Tứ Diệu đế) là xứ của Bát-nhã, tức là phạm vi hoạt động của Trí huệ. Lại nữa, tướng của Bát-nhã là hiểu thật rõ ràng, sáng tỏ. Vị hay chức năng của Bát-nhã là nhập vào Chánh pháp. Sự phát khởi của Bát-nhã, hay sự hiển lộ của Trí huệ là phá trừ được sự vô minh u ám. Xứ hay phạm vi hoạt động của Bát-nhã là bốn ngành của khoa biện luận.

Kể công đức của Bát-nhã, của Trí huệ, thì vô lượng công đức. Xin nghe bài kệ sau đây tóm lược lại các công đức:

Do Huệ, giới thanh tịnh,
Nhờ hai Huệ nhập Thiền.
Do Huệ tu theo Đạo,
Do Huệ thấy được Quả.
Bát-nhã là thắng thiện,
Huệ căn cao tuyệt đỉnh.
Mất Huệ thành ô uế,
Thêm Huệ thành cao thượng.
Huệ phá luận ngoại đạo,
Cắt ràng buộc thế pháp.
Người có Huệ, diệu khéo,
Lời lành khéo hiển bày.
Trong đời nầy, đời khác,
Nghe giải thoát khổ, vui,
Mọi nghiã cùng tinh tấn
Dõng mãnh, người có Huệ
Ắt thấy mọi pháp đó,
Lý Nhân duyên, Danh-Sắc,
Lời dạy trong Giáo pháp.
Ngôn ngữ trong Tứ Đế
cảnh giới Trí Huệ.
Nhờ Huệ trừ mọi ác
Tham ái, sân, vô minh.
Dùng Trí dứt sanh tử,
Trừ được việc khó trừ.

Hỏi: Nghiã của Huệ là gì?

Đáp: Nghiã của Trí huệ là khả năng đoạn trừ dứt sạch.

Có bao nhiêu công đức mới đắc được Huệ? Có tất cả mười một công đức: tầm cầu nghiã của khế kinh (= tu-đa-la), làm nhiều việc lành, cư trú nơi thanh tịnh, đình chỉ các loạn tưởng, quán tưởng về Bốn Chơn lý Nhiệm mầu (Tứ Diệu đế), hiểu rành các học thuật, tâm an trú, thường tại Thiền, dứt trừ các triền cái, xa lià người vô trí, thân cận người có trí huệ.

C mấy loại Trí Huệ? Có hai loại, có ba loại và có bốn loại.

Hỏi: Thế nào là hai loại Trí Huệ?

Đáp: Đó là Trí Huệthế gian, và Trí Huệ xuất thế gian. Huệ tương ứng với các đạo quả của bực Thánh là Huệ xuất thế. Chỗ còn lại tức là Huệ thế gian.

Huệ thế gian còn nhiều lậu hoặc (= sai lầm, thiếu sót), còn nhiều ràng buộc (= kết sử, các dục vọng, các tình cảm có tánh cách ràng buộc), còn nhiều trói chặt; Huệ đó là ngập lụt, là ách đè cổ, là nắp che đậy, là xúc chạm mạnh, là phát khởi, là phiền não.

Huệ xuất thế thì chẳng còn lậu hoặc, chẳng bị kết sử, chẳng bị trói buộc, chẳng bị ngập lụt, chẳng bị ách đè cổ, chẳng bị nắp che đậy, chẳng bị xúc chạm mạnh, chẳng phát khởi, chẳng phiền não.

Về ba loại Trí Huệ, đó là Tư huệ, Văn huệ, Tu huệ. Chẳng nghe theo người khác, nếu do nghiệp của mình mà trí khởi lên phù hợp với chơn lý, với công dụng, đó gọi là tư huệ. Do nghe theo người khác mà được huệ, đó gọi là văn huệ. Nếu tu nhập vào Tam-muội (= chánh định), đắc huệ, đó là tu huệ.

Lại nữa, thuộc về ba loại Huệ, có huệ đến, huệ đi, huệ phương tiện. Khi khởi ý lên hành động làm cho các việc chẳng lành phải lùi lại và các việc lành tăng thêm lên, đó là huệ đến, huệ đến làm lợi cho nghiệp lành của mình. Trái lại, nếu khởi ý lên hành động làm cho việc ác tăng lên mà việc thiện bị lui mất, đó là huệ đi, huệ đi mất, khiến cho nghiệp lành chẳng khởi. Còn huệ phương tiện là huệ biết dùng mọi phương tiện tốt để hành thiện.(= làm lành)

Lại nữa, thuộc về ba loại Huệ, có huệ tụ, huệ chẳng tụ, huệ vừa tụ vừa chẳng tụ. (Tụ, đây có nghiã là chất chứa, tích lũy lại) Huệ ở ba điạ hạt của nghiệp thiện, đó là huệ tụ. Huệ ở bốn đạo (từ Tu-đà-huờn đạo đến A-la-hán đạo), đó là huệ chẳng tụ. Huệ ở bốn đạo và bốn quả (hàng Thanh văn) và huệ ở ba điạ hạt của nghiệp thiện, đó gọi là huệ vừa tụ vừa chẳng tụ.

Về bốn loại Huệ, trí khởi tuỳ nghiệp, trí hợp với chơn lý, trí liên hệ đạo, trí liên hệ quả. Huệ khởi lên nơi mười lãnh vực của Chánh kiến, đó là trí khởi tùy nghiệp. Nếu thấy sự tập họp của các ấm (= uẩn), hoặc lẽ vô thường, khổ, vô ngã, khởi lên sự kham nhẫn, đó là trí hợp với chơn lý. Huệ khởi lên nơi bốn đạo (của hàng Thanh văn), đó là trí liên hệ đạo. Huệ khởi lên nơi bốn quả vị (hàng Thanh văn), đó là trí liên hệ quả.

Lại nữa, thuộc về bốn loại Huệ, huệ dục giới, huệ sắc giới, huệ vô sắc giới, huệ chẳng liên hệ. Huệ khởi lên về các việc thiện được xác định ở cõi dục giới, đó là huệ dục giới. Huệ khởi lên về các việc thiện được xác định ở cõi sắc giới, đó là huệ sắc giới. Huệ khởi lên về các việc thiện được xác định ở cõi vô sắc giới, đó là huệ vô sắc giới. Huệ khởi lên nơi các đạo và các quả, đó là huệ chẳng liên hệ.

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, pháp trí, tỉ trí, tha tâm trí đẳng trí. Huệ khởi lên nơi bốn đạo và nơi bốn quả, đó là pháp trí. Người toạ thiền tu pháp trí đó mà thành tựu được trí hiểu biết về quá khứ gần và xa, hiện tạivị lai gần và xa, đó là tỉ trí (tỉ = so sánh). Biết được tâm ý của kẻ khác, đó là tha tâm trí. Ngoại trừ ba trí vừa kể, chỗ còn lại được gọi là đẳng trí (đẳng = đồng đều).

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, có: (1) huệ do tụ mà chẳng do chẳng tụ, (2) huệ do chẳng tụ và chẳng do tụ, (3) huệ vừa do tụ vừa do chẳng tụ, (4) huệ chẳng do tụ và chẳng do chẳng tụ. Thiện huệ nơi dục giới thuộc loại thứ nhứt: huệ do tụ mà chẳng do chẳng tụ. Thiện huệ nơi bốn đạo (hàng Thanh văn) thuộc loại thứ hai: huệ do chẳng tụ và chẳng do tụ. Thiện huệ nơi sắc giớivô sắc giới thuộc loại thứ ba: huệ vừa do tụ vừa do chẳng tụ. Thiện huệ nơi bốn quả (hàng Thanh văn) và nơi ba điạ hạt của nghiệp thiện được xác định, thuộc loại thứ tư: huệ chẳng do tụ và chẳng do chẳng tụ.

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, có: (1) huệ do nhàm chán mà chẳng do thông đạt, (2) huệ do thông đạt mà chẳng do nhàm chán, (3) huệ do nhàm chán và do thông đạt, (4) huệ chẳng do nhàm chán cũng chẳng do thông đạt. Như thế, huệ do nhàm chán ham muốn nhưng chưa thông đạt được thần thông và Bốn Chơn lý Nhiệm mầu là huệ thuộc loại (1): huệ do nhàm chán mà chẳng do thông đạt. Hiện đã nhàm chán ham muốnđắc được thần thông, nhưng còn chưa thông đạt được Bốn Chơn lý Nhiệm mầu, đó là huệ thuộc loại (2), là Bát-nhã. Huệ do sự thông đạt mà chẳng do nhàm chán nơi bốn đạo (hàng Thanh văn) thì thuộc loại (3): huệ do nhàm chán và do thông đạt. Các huệ còn lại, chẳng do nhàm chán, chẳng do thông đạt, thuộc loại thứ tư.

Lại nữa, thuộc về bốn loại Huệ, có: (1) nghiã biện, (2) pháp biện, (3) từ biện, (4) lạc thuyết biện. Trí hiểu biết rõ ràng về nghiã, là nghiã biện (= phân biện về nghiã). Trí thông hiểu rõ ràng về Chánh pháp, là pháp biện. Trí hiểu biết từ ngữ, ngữ nguyên, là từ biện. Trí hiểu biết về chính sự hiểu biết, là lạc thuyết biện. Trí thông hiểu về nhân quả, là nghiã biện. Trí thông hiểu về nhân duyên, là pháp biện. Trí phân biện Chánh pháp (pháp biện) vừa là từ biện vừa là lạc thuyết biện.

Lại nữa, trí thông đạt Khổ đế (= Chơn lý về Khổ) và Diệt đế (= Chơn lý về sự tận diệt Khổ), còn được gọi là nghiã biện. Trí thông đạt Tập đế (= Chơn lý về nguyên nhân của Khổ) và Đạo đế (= Chơn lý về con đưởng dứt Khổ), còn gọi là pháp biện. Trí nói pháp rành rẽ, rõ cả nghiã và lời, còn gọi là từ biện. Trí hiểu rõ các sự hiểu biết còn gọi là lạc thuyết biện.

Lại nữa, thông hiểu Chánh pháphiểu rõ mười hai loại bộ kinh:

1) khế kinh hay trường hàng (= Tu-đa-la, Sutra),
2) trùng tụng (= Kỳ-dạ, Geya),
3) thọ ký (= Hoà-ca-la-na, Vyakarana),
4) phúng tụng (= Già-đà, Gathà),
5) tự thuyết (= Ưu-đà-na, Udana),
6) nhơn duyên (= Ni-đà-na, Nidàna),
7) thí dụ (= A-ba-đà-na, Avadàna),
8) bổn sự (= Y-đế-mục-đà-già, Itivrtaka),
9) bổn sanh (= Xà-đà-già, Jàtaka),
10) phương quảng (= Tỳ-phật-lược, Valpulya)
11) vị tằng hữu (= A-phù-đà-đạt-ma, Abhutahdharma)
12) luận nghị (= Ưu-ba-đề-xá, Upadesa).

Đó gọi là pháp biện. Hiểu rõ nghĩa các loại bộ kinh đó, thuyết giảng cho đầy đủ ý nghĩa, đó gọi là nghĩa biện. (...)

Lại nữa, thuộc về bốn loại huệ, có: (1) Khổ trí, (2) Khổ tập trí, (3) Khổ diệt trí, (4) Đạo trí. Sự thông hiểu về Khổ là Khổ trí. Sự thông hiểu về nguyên nhân của Khổ là Khổ tập trí. Sự thông hiểu về sự tận diệt KhổKhổ diệt trí. Sự thông hiểu các việc tu hành tương ứng với các trí đó, là trí đầy đủ (cụ túc trí), tức là Đạo trí.

Phẩm 10: Phân biệt Huệ chấm dứt.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15911)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14346)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13440)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13153)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16066)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16319)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11776)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17469)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12795)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13582)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12788)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14776)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16245)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12692)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14029)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14021)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12292)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10932)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13121)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13798)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13066)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13409)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13816)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13596)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16164)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11873)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12874)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10981)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12520)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11231)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant