Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chi 4: Mười Niệm (tiếp theo)

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8141)
Chi 4: Mười Niệm (tiếp theo)

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm hiểu Phẩm 8: Hành môn

Chi 4: Mười Niệm (tiếp theo)


Chuyển tiếp: Trong Chi 3 Phẩm 8 về Hành môn, Luận văn bắt đầu giảng về Mười Niệm, nhưng chỉ đến niệm thứ sáu là Niệm Thiên. Còn lại bốn niệm: Hơi Thở, niệm Tử, niệm Thân và Niệm An tịch, đến Chi 4 nầy mới chấm dứt. Trong bốn Niệm còn lại, Niệm Hơi Thở là phần quan trọng nhứt.

063. Tầm quan trọng của Niệm Hơi Thở.

Đời sống con người biểu hiện qua hơi thở, hơi thở có ra vào đều đặn, con người mới hoạt động được với đầy đủ các khả năng về thể chấttinh thần. Nhưng mỉa mai thay! Có rất ít người lưu tâm đến chính nguồn sống đó: họ cứ hít vào, cứ thở ra, mà nào có biết là họ đang thở! Biết thật đúng hơi thởý thức sẽ đem đến sự thay đổi lớn trong thái độlối sống hằng ngày của mình và sẽ tiến gần đến con đường giác ngộgiải thoát.

Đó là điều mà người học tập giáo lý nhà Phật cần nên tìm hiểu về Niệm Hơi Thở trong đoạn Luận văn nầy.

064. Dàn bài của Chi 4, Phẩm 8: Hành môn.

I. Nhập đề: Không có phần Nhập đề, vì Chi 4 kể như đang tiếp tục Chi 3.

II. Thân bài: Chi 4 chia ra làm bốn phần, bàn về bốn đề mục khác nhau, mỗi đề mục thành một bài riêng.

21) NIỆM HƠI THỞ:

A. Thế nào là Niệm Hơi Thở?

1. Anàpanàsati: Anà = An, thở ra (xuất tức); Panà = Ban, hít vào (nhập tức); Sati = niệm.
2. Thở ra dài, biết thở ra dài; Hít vào ngắn, biết hít vào ngắn.
3. Lưu tâm nơi hơi thở va chạm vào chót mũi.
4. Niệm bám sát vào hơi thở khi va chạm.

B. Tu Niệm Hơi Thở như thế nào?

1. Luận văn mô tả rất rõ cách niệm khi thở.
2. Các
điều cần tránh khi tập thở.
3.Tướng gió khởi khi niệm hơi thở
được điều hoà.
4. Các tướng kỳ lạ có thể xảy ra trong khi tu tập.
5.
Đắc tâm bất loạn và các thiền chi.

C. Bốn phép tu tập cổ điển về Niệm Hơi Thở:

1. Toán hay đếm, tương đương với Sổ tức.
2. Tuỳ trục hay theo đuổi sát, tương
đương với Tùy tức.
3. An trí hay trụ yên vào, tương
đương với Chỉ.
4. Tuỳ quán hay quán sát theo, tương
đương với Quán.

Bốn phép nầy trong Luận văn tương đương với bốn pháp Sổ tức, Tùy Tức, Chỉ và Quán trong Lục Diệu Pháp Môn.

D. Niệm Mười Sáu Hơi Thở:

1. Nhóm thứ nhứt: Niệm Thân

Hơi thở thứ 1: Thở vào dài, thở ra ngắn, thở vào ngắn, nên theo đó mà học tập. Học tập những gì? (1) chẳng lẫn lộn khoảng cách dài, ngắn khác nhau; (2) niệm nắm lấy đối tượng: hơi thở khi dài, khi ngắn.

Hơi thở thứ 2: Biết tất cả thân, tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Do hơi thở ra vào xúc chạm nơi chót mũi gây cảm giác dễ chịu, mừng vui khởi lên, sớm đắc định,và thể nghiệm được toàn thân, chẳng lẫn lộn; (2) Biết đối tượng sắc thân: hơi thở ra vào nơi trú xứ của sắc thân, và các yếu tố của sắc thân nầy chỉ gồm có: hơi thở, tâm và các tâm sở mà thôi. Chẳng có chúng sanh, chẳng có thọ mạng

Hơi thở thứ 3: Như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) tăng thượng giới học, (2) tăng thượng tâm học, (3) tăng thượng huệ học.

Hơi thở thứ 4: Khiến cho thân hành được an tịnh, tôi thở vào; như thế mà học tập. Học những gì? (1) Xét tư thế của thân trong khi thở, từ thô qua tế, đến thật tế nhị, và trong an tịnh; (2) Khi hơi thở tuy chấm dứt ở cấp Tứ thiền, nhưng vẫn còn tướng gió ban đầu để theo dõi.

2. Nhóm thứ hai: Niệm Thọ.

Hơi thở thứ 5: Thể nghiệm nỗi mừng (Hỉ), tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Biết chẳng lẫn lộn nỗi mừng khởi lên ở Sơ ThiềnNhị thiền, do quán chiếu đối tượng hơi thở; (2) Thể nghiệm nỗi mừng nhưng chẳng tham đắm.

Hơi thở thứ 6: Thể nghiệm niềm vui (Lạc), tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Biết chẳng lẫn lộn niềm vui khởi lên ở Tam thiền, do quán chiếu đối tượng hơi thở; (2) Thể nghiệm niềm vui nhưng chẳng tham đắm.

Hơi thở thứ 7: Thể nghiệm các tâm hành, tôi thở vào, như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Mừng (Hỉ) thuộc thọ uẩn, Vui (Lạc) thuộc tưởng uẩn, biết rõ chẳng lẫn lộn qua sự thể nghiệm; (2) Thể nghiệm các tâm hành, mà chẳng tham đắm.

Hơi thở thứ 8: Khiến tâm hành được an tịnh, tôi thở vào, như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Biết chẳng lẫn lộn: Mừng còn thô, Vui tuy tế, nhưng hai tâm hành nầy còn chưa an tịnh, (2) Khiến khởi lên niệm Xả nơi tâm hành: chỉ niệm Xả thanh tịnh mới yên ổn.

3. Nhóm thứ ba: Niệm Tâm.

Hơi thở thứ 9: Thể nghiệm Tâm, tôi thở vào; như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Tâm biết tâm đang mừng, vui, biết chẳng lẫn lộn các tâm sở ấy; (2) Tâm biết tâm đang theo dõi đối tượng hơi thở.

Hơi thở thứ 10: Khiến Tâm trở nên hoan hỉ, tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học những gì? (1) Tâm biết chẳng lẫn lộn lúc mừng tâm xao động; (2) Tâm biết chẳng lẫn lộn khi vui, tâm tế nhị hơn.

Hơi thở thứ 11: Khiến giáo hoá Tâm, tôi thở vào, như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Giáo hoá Tâm là điều phục Tâm trở nên an tịnh; (2) Biết Tâm được định tỉnh, chẳng lẫn lộn theo dõi mỗi hơi thở vào, ra.

Hơi thở thứ 12: Khiến giải thoát Tâm, tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Khi Tâm giải đãi, khởi tinh tấn để giải thoát Tâm; (2) Khi Tâm vọng động, khởi an tịnh, giải thoát Tâm.

4. Nhóm thứ tư: Niệm Pháp.

Hơi thở thứ 13: Thường thấy Vô thường, tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Thấy Vô thường khi hơi thở vào khởi lên, kéo dài, rồi tan mất, để hơi thở ra khởi lên tiếp theo, rồi cũng tan mất...; (2) Biết chẳng lẫn lộn Tâm và các tâm sở đang theo dõi hơi thở cũng nổi lên rồi tan biến, cũng lại vô thường như hơi thở vậy.

Hơi thở thứ 14: Thường thấy Vô dục, tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Biết rõ các pháp vô thường chẳng bền vững, nên chẳng đáng ham muốn, do đó lià được tham dục; (2) Biết rõ khi Vô dục là tâm tiến gần đến ngưỡng cửa Niết-bàn là pháp vô vi.

Hơi thở thứ 15:Thường thấy Đoạn diệt, tôi thở vào, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Thấy đúng như thật các pháp vô thường có nhiều lỗi lầm, liền diệt bỏ đi; (2) Biết rõ đoạn diệt các pháp vô thường, là thấy rõ sự tịch diệt, đó là Niết-bàn.

Hơi thở thứ 16: Thường thấy Xuất ly, tôi thở ra, cứ như thế mà học tập. Học tập những gì? (1) Biết rõ chẳng lẫn lộn sự Đoạn diệt các pháp vô thường xuất ly, ra khỏi tất cả các phiền não; (2) Biết rõ xuất ly đưa tới tịch diệt, đắc được sự an tịch của Niết-bàn.

E. Tu Niệm 16 Hơi thở thành mãn lần lượt đắc được Tứ niệm xứ, Thất giác chi, cùng Trí huệgiải thoát.

1. Đắc Tứ niệm xứ: Tứ niệm xứ hay là bốn lãnh vực quán niệm: niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm niệm Pháp. Sự sắp xếp 16 Hơi thở thành 4 nhóm, như ở trên, cho thấy rõ bốn lãnh vực của Niệm xứ.

2. Đắc Thất giác chi: Bảy chi (= yếu tố) của sự giác ngộ là: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, định và xả. Lần lượt thành tựu Thất giác chi với:

- giác chi (1): hơi thở thứ 1về niệm,
- giác chi
(2): hơi thở thứ 13 về trạch pháp,
-
giác chi (3): hơi thở thứ 11 về tinh tấn,

- giác chi (4): hơi thứ 5 về Hỉ (nỗi mừng),
-
giác chi (5): hơi thở thứ 10 về khinh an,
-
giác chi (6 và 7): hơi thở thứ 12 về định và xả.

3. Đắc Trí huệgiải thoát: Do tu tập nhiều về thất giác chi, khiến trong sát-na đắc đạo, nên trí huệ thành mãn. Và cũng trong sát-na, đắc quả, khiến sự giải thoát được hoàn toàn cả đạo quả.

22) NIỆM TỬ:

A. Thế nào là Niệm Tử?

1. Thọ mạng dứt thì chết, khởi lên niệm về sự Chết, đó là Niệm Tử.

2. Có bốn loại Niệm Tử:

21. Niệm Tử liên quan đến sự lo âu: như khi mất đứa con thân yêu;
22. Niệm Tử liên quan
đến sự kinh hãi: như khi con cái chết bất thình lình;
23. Niệm Tử liên quan
đến sự lãnh đạm: như người đạo tùy thiêu xác chết;
24. Niệm Tử liên quan
đến trí huệ: như khi khởi lên sư chán ngán cảnh đời.

Trong bốn loại, chỉ nên chọn Niệm Tử thứ tư, liên quan đến Trí huệtu tập.

3. Các loại chết:

31. Chết thông thường: vì già, vì bịnh;
32. Chết bất thường: tai nạn, vì tự sát,...
33.
Đoạn tử: Bực A-la-hán đoạn diệt xong các phiền não, tức là đã giết chết hết các phiền não.
34. Niệm niệm tử: các uẩn tạm thời chấm dứt trong cơn Thiền
định (trường hợp vô niệm).

Hai loại chết sau được hiểu theo nghiã bóng.

B. Công đức tu Niệm Tử: Tu niệm Tử thành mãn, được:

1. chẳng phóng dật, chăm lo tu hành Chánh Đạo
2. chẳng lo tích trữ, chẳng bỏn xẻn,
3. thường nghĩ đến vô thường, khổ, vô ngã,
4. tâm thường hướng về Niết-bàn
5. khi sắp chết, chẳng mê mờ.

C. Tu cách nào? Luận văn kể rõ Tám cách tu Niệm Tử:

1. như bị kẻ ác rượt đuổi;
2. chẳng có cách nào ng
ăn sự chết đừng đến
3. so sánh thân phận mình với các bực toàn n
ăng rồi họ cũng phải chết;
4. xét thấy thân thể nầy bị lệ thuộc nhiều thứ;
5. vì thọ mạng bất lực trước cái chết;
6. do phân biệt xưa nay chẳng ai mà chẳng chết;
7. do chẳng có tướng nào
để biết rõ trước cái chết
8. do sát-na: cuộc sống chỉ trong sát-na ngắn ngủi

D. Khác biệt giữa Vô thường tưởng và Tử niệm.

1. Vô thường tưởng liên quan đến sự sanh và diệt của các ấm (= uẩn). Vô thường là chẳng bền vững, chẳng thường hằng. Tưởng vô thường giúp hành giả tránh được sự kiêu mạnhiện có sắc đẹp, sức khoẻ, tuổi trẻ; những điều nầy sẽ biến đổi và phai nhạt cùng thời gian.
2. Niệm Tử liên quan
đến sự diệt của các căn, khi thọ mạng dứt. Nhờ niệm Tửtâm hành giả an trú được nơi các tưởng vô thường, khổ vô ngã, giữ được thanh tịnh.

23) NIỆM THÂN:

A. Thế nào là Niệm Thân?

1. Niệm Thân là niệm về thân tánh, tức là bản tánh bất tịnh của tấm thân thể vật chất nầy.
2. Niệm Thân trước hết phải thuộc lòng 32 phần trong thân thể, thuộc cho
đến mức đọc xuôi, đọc ngược theo thứ tự, đều trôi chảy trơn tru.
3. Quán niệm 32 phần ấy theo:(1) màu sắc,(2) hình dạng; (3) hành xứ,
để khởi lên tướng.
4. Ba loại tướng
được khởi lên: (1) sắc, (2) sự chán ghét; (3) Hư-không.

B. Tu Niệm Thân đắc các công đức nào?

1. Thêm sự nhẫn nại
2. Kham chịu sợ hãi, lo âu, các biến
đổi thời tiết
3. Có được tưởng vô thường, khổ, vô ngã
4. Biết lo sợ trước các lỗi lầm.

C. Tu Niệm Thân theo mười ba cách:

1. theo hột giống: thân nầy do hột giống bất tịnh của cha mẹ mà sanh ra, nên cũng bất tịnh;
2. theo xứ: sanh từ bụng mẹ chứa chất bất tịnh;
3. theo nhân duyên (=
điều kiện sanh sống trong bụng mẹ), lăn lóc giữa các chất nhờn;
4. theo rĩ chảy, túi da có chín lỗ hổng rỉ ra máu mủ, phân, nước tiểu, ghèn, ...
5. theo thứ lớp hình thành: Luận v
ăn kể 29 tuần thai nhi nằm trong bụng mẹ cho đến khi sanh.
6. theo các loại trùng: Luận v
ăn liệt kê dài dòng hàng trăm loại vi trùng trong cơ thể;
7. theo an xứ, là nơi các khúc xương ráp với nhau
8.theo sự tụ họp của các mảnh xương và bắp thịt;
9. theo sự chán ghét;
10. theo sự chẳng sạch;
11. theo sự phát sanh ra bịnh tật;
12. theo sự chẳng biết ơn của thân;
13. theo chỗ thân giới hạn.

24) NIỆM AN TỊCH:

A. Thế nào là Niệm An Tịch?

1. An tịch là yên vắng, nguyên văn trong bộ Luận là Tịch tịch, vắng vẻ. Chữ An tịch chỉ sự yên lặng, an nhiên của thân tâm: thân nhẹ nhàng, tâm lắng dịu.
2. Niệm An tịch khởi lên khi thân hết loạn
động, tâm chẳng xao xuyến, theo sau cơn Thiền Định
3. Niệm An tịch
đưa đến sự giải thoát vi diệu.

B. Công đức của Niệm An Tịch.

Thành mãn được niệm An tịch, thì đắc được:

- ngủ được yên giấc,
- suy nghĩ an ổn, tâm thanh tịnh, vắng vẻ
- các c
ăn thanh tịnh được điều phục,
- người trở nên khả ái,
được kính nễ
- hướng về Niết-bàn.

C. Niệm An Tịch và Thiền Định:

1. Nơi Sơ Thiền, niệm an tịch diệt các triền cái;
2. Nơi Nhị Thiền, niệm an tịch diệt giác, quán;
3. Nơi Tam Thiền, niệm an tịch diệt Hỉ;
4. Nơi Tứ Thiền, niệm an tịch diệt Lạc.
5. Nơi Không
Định, niệm an tịch diệt sắc tưởng.
6.NơiThức
Định, niệm an tịch diệt Hư-không tưởng
7. Nơi Vô sở hữu xứ
Định, niệm diệt thức tưởng;
8. Nơi Phi tưởng
Định, niệm diệt tưởng vô sở hữu;
9. Nơi Diệt tận
Định, niệm đó diệt thọ và tưởng.

D. Niệm An tịch và Đạo Quả:

1. Đắc quả Tu-đà-hườn, niệm an tịch diệt các phiền nãotà kiến thô.
2.
Đắc quả Tư-đà-hàm, niệm an tịch diệt các tham dụcsân hận thô;
3.
Đắc quả A-na-hàm, niệm an tịch diệt các tham dụcsân hận tế;
4.
Đắc quả A-la-hán, niệm an tịch diệt tất cả các phiền não, khiến chúng tịch diệt nơi Niết-bàn.

III. Kết Luận: Luận văn chẳng có phần kết luận mà chỉ đưa ra các vấn đề linh tinh (Tán cú) về Mười Niệm, như:

- Niệm công đức của các Đức Phật thời quá khứ,
- Niệm công đức bực Thanh văn cũng được gọi là Niệm T
ăng;
- Niệm Thí về công đức bố thí của mình làm t
ăng sự hoan hỉ;
- Niệm Thiên là t
ăng lòng tin tưởng, v.v.

065. Ý chánh của Niệm Hơi Thở, Niệm Tử, Niệm Thân và Niệm An Tịch.

Tóm tắt mà nói, khi tu tập về Mười Niệm, phần quan trọng là chú tâm đến các trọng điểm, như Niệm Hơi Thở quan trọng ở sự tỉnh thức, Niệm Tử quan trọng ở sự chẳng thể tránh được, Niệm Thân quan trọng ở chỗ bất tịnh, Niệm An tịch quan trọng ở chỗ yên vắng, tĩnh lặng.

1. Nìệm Hơi Thở giúp hành giả giữ được chánh niệm luôn luôn sáng tỏ, theo dõi tất cả thân hành, tâm hành.

2. Niệm Tử giúp hành giả luôn luôn nghĩ đến cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, nên tự thúc dục mình phải tinh tấn tu tập.

3. Niệm Thân giúp hành giả nhận chân tánh cách bất tịnh bên trong thân thể mà bỏ lòng tríu mến, diệt được thân kiến, tiến tới vô ngã.

4. Niệm An tịch giúp hành giả có nơi an nghĩ, và chính nơi nầy, thân tâm được tạm thời giải thoát, trong sự yên vắng.

066. Tìm hiểu nghiã các chữ khó của Chi 4:

Niệm An ban: Niệm = Pàli là Sati, một ý nghĩ khởi lên trong tâm; An ban= phiên âm chữ Pàli Anàpanàsati = An= Anà= xuất tức= hơi thở ra; Ban= Panà= nhập tức= hơi thở vào.

Như thế, Niệm An ban, hay Niệm xuất tức, nhập tức, đều có nghiã giản dị là Niệm Hơi thở, tâm theo dõi từ hơi thở ra, hơi thở vào khi chúng chạm vào chót mũi.

Chánh niệm: Chánh = chơn chánh, đứng đắn; Niệm = ý nghĩ trong tâm. Có chánh niệm là trong tâm luôn luôn theo dõi mọi biến chuyển của thân và của tâm; thí dụ, đang ăn, biết mình đang ăn, đó là có chánh niệm. Nói điều gì, biết mình đang nói điều ấy, đó là chánh niệm theo dõi hành động của miệng. Chánh niệm phải thắp sang lên cả ngày, vì nếu không, thì sống cũng như cái máy. Chánh niệm khiến mình tỉnh thức.

Thắng diệu: Thắng = hơn, hay hơn, tốt hơn; Diệu = thật là khéo, thật là mầu nhiệm khác thường.

Khả ái: Xem lại trang 369, Phẩm 6.

Tứ niệm xứ = Bốn lãnh vực quán niệm: Khi tu tập quán tưởng, tập trung tư tưởng về bốn lãnh vực để suy nghiệm; bốn lãnh vực đó là: (1) Thân vật chất, (2) Thọ, các cảm giác, tình cảm; (3) Tâm và các tâm sở, tâm hành tức là các biến chuyển của tâm; (4) Pháp, tất cả các sự vật.

Quán thân thì thấy bất tịnh, quán thọ thì thấy khổ, quán tâm thì thấy vô thường, quán pháp, (= sự vật) thì thấy vô ngã.

Thất giác chi = Bảy giác chi = Bảy yếu tố của sự giác ngộ = Thất Bồ-đề phần: Sự giác ngộ được phân ra làm 7 yếu tố: (1) niệm giác chi, (2) trạch pháp giác chi. (3) Tinh tấn giác chi, (4) Hỉ giác chi, (5) Khinh an giác chi, (6) Định giác chi, (7) Xả giác chi.

Trạch pháp = chọn lựa pháp, biết phân biệt các pháp.

Khinh an = Xem lại trang 323, Phẩm 1

Trời Phạm: Xem lại chữ Phạm Thiên, trang 422, P. 8

Như Lai: Pàli Tathàgata = Như = như thế; Lai = đến. Chữ Như Lai dành cho các Đức Phật. Lúc Đức Phật còn tại thế, các đệ tử gọi Ngài là Thế tôn, còn Ngài thì tự xưng là Như Lai. Kinh Kim cang định nghiã chữ Như Lai: ''Chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu".

Kiết-già: Xem lại trang 416, Phẩm 8

Tâm hành: Tâm = tâm; Hành = hành động; Tâm hành chỉ các hành động, các biến chuyển của Tâm; thí dụ như tâm giận là một tâm hành; tâm vui, tâm mừng, v.v.

Tác ý: Xem lại trang 344, Phẩm 2.

Dị tướng: Dị = kỳ dị, kỳ lạ, khác thường; Tướng = hình tướng. Thấy các dị tướng khởi lên, đó là óc tưởng tượng bên trong phóng ra trên màn ảnh tâm, hư ảo, giả dối, chẳng thật.

Điên đảo: Xem lại trang 446, Phẩm 8.

Tiên sư: Tiên = trước; Sư = Thầy. Bực tiên sư là những bực Sư, bực Thầy ngày trước có dạy, nay truyền lại.

Tuỳ trục: Tuỳ = nương theo; Trục = rượt đuổi. Chữ Tùy trục đây có ý muốn nói, tâm đeo theo sát niệm hơi thở chẳng để cho niệm ấy gián đoạn vì các ý tưởng khác.

Tuỳ quán: Tùy = nương theo; Quán = suy nghĩ cặn kẽ. Tùy quán tiếp tục đeo sát đề mụcquán tưởng.

Sự: Nguyên văn câu hỏi nầy (trang 159) Vân hà bất ngu si sự? được tạm dịch là Thế nào là chẳng lẫn lộn và đối tượng, có vẻ hơi gượng; nhưng chữ bất ngu si ý muốn nói có sự phân biện chẳng lẫn lộn; còn chữ sự đây muốn nói đến nội dung của việc quán tưởng, tức là đối tượng hơi thở đang học tập. Vì lẽ đó mà dịch bất ngu si = chẳng lẫn lộn; sự = đối tượng.

Trái nghiã với chữ sự là chữ lý. Sự nói về sự kiện, các sự việc cụ thể; còn thì bàn về lý thuyết.

Sắc thân: Sắc = hình sắc, lại có nghiã là vật chất; Thân = thân thể, tấm thân vật chất. Sác thân trái nghiã với Tâm, thuộc về tinh thần, chẳng có hình sắc.

Thể nghiệm: Thể = thân thể; Nghiệm = cảm nghiệm, có kinh nghiệm về việc gì. Thể nghiệm một việc gì là tự mình có kinh nghiệm bản thân về việc ấy, chớ chẳng phải chỉ nghe nói mà biết qua. Thí dụ: Tôi uống nước mát; tôi đang thể nghiệm sự mát mẻ: khi nước uống vào trong, thấy mát lần lần ở miệng, ở họng, ở bụng, v.v.

Thọ mạng: Thọ = tuổi thọ; Mạng = mạng sống. Thọ mạng tức là sức sống nơi mọi sanh vật qua thời gian.

Như thực: Như = như thế, giống y chẳng có chút khác biệt nào; Thực = sự thực, sự thật, Chơn lý. Giới như thực là giới đúng theo Chơn lý. Định, Huệ như thực lại cũng như thế, theo đúng Chơn lý, chẳng chút nào sơ hở, sai chạy.

Thân hành: Thân = sắc thân, thân thể vật chất; Hành = hành động. Thân hành là những cử động của thân. Trái nghiã với tâm hành, là các biến chuyển của Tâm.

Chuyên nhứt: Xem lại trang 417, Phẩm 8.

Trì huỡn: Trì hoãn: Trì = chậm; Hoãn = thong thả, chậm chạp. Trì huỡn là chậm lụt, huỡn đãi.

Vô thường: Xem lại trang 337. Phẩm 2

Vô dục: Vô = chẳng có; Dục = ham muốn. Vô dục là dứt hẳn mọi sự ham muốn.

Nê-hoàn: phiên âm chữ Phạn Nirvana, cùng với chữ Niết-bàn chung một nghiã là viên tịch, vắng lặng, ra khỏi rừng phiền não u tối.

Đoạn diệt: Đoạn = cắt đứt, dứt bỏ; diệt = làm cho tiêu tan mất đi. Chữ Đoạn diệt đây chỉ tình trạng tận diệt hoàn toàn tất cả các phiền não, tâm trở nên thanh tịnh vắng vẻ; như thế, đoạn diệt gần nghiã với sự chết, sự vắng lặng, và do đó chẳng xa nghiã với chữ Niết-bàn.

Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na: Xem lại trang 421, Ph. 8

Thành mãn: Thành = thành công, hoàn thành; Mãn = đầy; Thành mãn thành công đầy đủ, hoàn toàn. Cùng nghiã với Thành tựu.

Sát-na: phiên âm chữ Phạn Ksana, Pàli Khanika, chỉ đơn vị thời gian rất ngắn, bằng 0.0013 của giây, còn ngắn hơn cái tích tắc.

Càn-thát-bà: phiên âm chữ Pàli Gandhabba, vị nhạc thần trên cõi Trời. Còn gọi là Hương thần, thích ngữi mùi thơm.

Phóng dật: Phóng = buông trôi, buông thả; Dật = yên nghỉ, chẳng hoạt động. Người phóng dật là người lười biếng cứ ngồi nghỉ, chẳng làm việc chi có ích.

Bỏn xẻn = rít róng, chẳng hào phóng, chẳng bố thí.

Đề hồ = chất kem đặc trên sữa; chỉ đến món ngon nhứt, do đó chỉ đến hương vị của cõi Niết-bàn. Đồng nghiã với Nê-hoàn, Niết-bàn.

Xà duy: âm tiếng Pàli, có nghiã là người đạo tùy, kẻ lo thiêu xác chết ở nghiã địa.

Lãnh đạm: lạnh lùng, chẳng quan tâm, dửng dưng.

Đẳng tử: Đẳng = ngang hàng, bằng nhau; Tử = chết. Đẳng tử có nghiã là cái chết thông thường, chết vì bịnh, già.

Đoạn tử: Đoạn = cắt đứt; Tử = chết. Chữ đoạn tử được dùng theo nghiã bóng: bực A-la-hán giết chết các phiền não, đó gọi là đoạn tử.

Niệm niệm tử: sự biến diệt của các niệm trong tâm; mỗi khi niệm khởi lên, trụ tại tâm một thời gian rất ngắn, rồi diệt di; sự tiêu diệt đó gọi là niệm niệm tử.

Tự sát: Tự = chính mình; Sát = giết chết. Tự sát là tự tử.

Duyên giác: Xem lại trang 341, Phẩm 2.

Tử pháp: Tử = chết; Pháp = sự việc. Nhập vào tử pháp có nghiã là chết.

Phi nhơn = Hạng chúng sanh chẳng phải là người mà cũng chẳng phải là Trời, gần với các thần linh.

Bất lực: Bất = chẳng có; Lực = sức mạnh. Bất lực = chẳng đủ sức.

Tận thế: Tận = cùng tận, chấm dứt; Thế = đời; thế giới. Cảnh tận thế xảy ra khi tất cả mọi sanh vật, động vật, khoáng vật đều bị đốt cháy hết.

Hoành cách mạc: Hoành = ngang; cách = ngăn chia; mạc = mô, bắp thịt dày thành lớp. Hoành cách mạc là lớp mô (lớp da dầy) chắn ngang giữa ngực và bụng (diaphragme).

Tử cung = cái bọc trong bụng mẹ nơi thai nhi lớn lên.

Sản môn: Sản = sanh sản, sanh đẻ; môn = cửa. Sản môn là nơi thai nhi chui ra khỏi bụng mẹ, khi sanh ra.

Động kinh: bịnh về thần kinh, tay chơn bỗng giựt lên, mắt trợn ngược, sùi bọt mép.

Hoa liễu: bịnh phong tình, do sự giao hợp nam nữ.

An tịch: Nguyên văn trong bộ Luận là Niệm Tịch tịch có nghiã là niệm về sự vắng lặng, an ổn. An = yên; Tịch = vắng.

Như như: Danh từ đặc biệt trong Phật học, chỉ sự bất động, yên ổn, chẳng đổi dời, chẳng chuyển động, trước cũng như sau giữ mãi thế an hoà. Tâm như như tâm thanh tịnh, chẳng xao động, bất động.

Hội náo: Hội = rối rắm, rắc rối, hỗn tạp; Náo = náo loạn, ồn ào. Chữ hội náo đây chỉ sự ồn ào nơi thành thị, trái với cảnh tịch mịch của rừng rú.

067. Suy gẫm về các Niệm trong Chi 4:

1) Từ phép Đếm hơi thở đến Niệm 16 hơi thở:

11) Luận văn, trang 158, trình bày Bốn cách Niệm An ban: (1) toán hay đếm; (2) tùy trục hay theo dõi sát hơi thở; (3) an trí hay yên trụ vào hơi thở; (4) tùy quán hay quán tưởng về hơi thở; nhưng chẳng chỉ rõ sự liên hệ chặt chẽ giữa bốn cách đó.

111. Thật ra, theo thứ tự từ đếm cho đến tùy quán, có sự liên tục tiệm tiến, hành giả tiến bộ rõ rệt khi bước từ việc đếm hơi thở, sang theo dõi hơi thờ. Trong giai đoạn nầy, hành giả nhờ đếm mà dẹp xong được loạn tưởng, kế mới có thể chú tâm hoàn toàn để theo dõi hơi thở, khi dài, khi ngắn, khi thô, khi tế.

112. Từ theo dõi hơi thở sang an trụ vào hơi thở chẳng có khó khăn; vào lúc nầy tâm hành giả hoàn toàn nương theo hơi thở, cùng với hơi thở hoà nhịp, mà giữ yên.

113. Từ an trụ bước sang tùy quán: hành giả theo dõi khoảng cách các hơi thở (dài hay ngắn), hoặc tánh cách hơi thở (thô hay tế), và tiếp tục quán tưởng về hơi thở.

Thiển nghĩ, bốn cách đó, nếu tập được nhuần nhã, chắc sẽ đưa hành giả vào Định.

12) Niệm 16 Hơi thở, các trang 159 163, được Luận văn trình bày như một cách quán niệm, mà chẳng thấy chỉ rõ sự liên hệ với bốn pháp Đếm... và Tùy Quán ở trước. Thật ra, phép Niệm 16 Hơi thở nầy tiếp tục công việc của phép đếm ở trước, đồng thời đi sâu vào Thiền quán.

121. 16 hơi thở chia thành bốn nhóm, tức là bốn lãnh vực quán niệm: thân, thọ, tâm và pháp, mỗi nhóm có bốn hơi thở và cách học tập về quán niệm.

122. Quán Thân: theo dõi hơi thở dài, ngắn, và điều hoà hơi thở, từ thô đến tế, khiến cho quán thấy được toàn thân, biết rõ các thân hành. Việc quán tưởng trong lãnh vực nầy nhằm phá bỏ thân kiến: "chẳng có chúng sanh, chẳng có thọ mạng", chỉ có tấm thân vật chất đang thở mà thôi, và thân đó lại vô ngã.

123. Quán Thọ: Hỉ Lạc khởi lên khi thân và tâm đang được yên ổn. Việc quán tưởng trong lãnh vực nầy nhằm an định các tâm hành: thọ và tưởng. Biết có mừng, vui, nhưng chẳng tham đắm vào đó, để tâm được thanh tịnh.

124. Quán Tâm: thể nghiệm được tâm qua sự theo dõi hơi thở. Việc quán tưởng trong lãnh vực nầy nhằm giáo hoá tâm, tức là điều phục khi tâm hoan hỉ, xao động thì khiến tâm "định tỉnh", lại khiến tâm được "giải thoát".

125. Quán Pháp: đây là lúc áp dụng phép tùy quán ở trên, để thấy rằng hơi thởvô thường, tâm theo dõi hơi thở cũng vô thường luôn, từ đó mà bước sang qua lãnh vực "vô thường, vô dục, đoạn diệt xuất ly".

Do đó, Niệm 16 Hơi thở là phép toạ thiền thù thắng nhứt, giúp hành giả thấy rõ hai đặc tướng: vô thường, vô ngã.

2) Tám cách tu Niệm Tử nhằm mục tiêu: gây ra sự tự thúc dục phải mau mau tu tập.

21) Từ trang 167 đến 169, Luận văn trình bày tám cách tu tập về Niệm Tử, nhưng chẳng thấy đưa ra mục tiêu của việc tu tập. Mục tiêu đó là, vì sự chết chẳng thể tránh được và có thể bất chợt đến với mình, hành giả phải tự thúc dục mình nên mau mau tu tập để được giải thoát, kẻo trễ.

211. Cái chết chẳng thể tránh được:xưa nay ai ai rồi cũng chết; các bực quyển thế cao tột, các bực thần thông thông tuyệt đích, các bực trí huệ siêu phàm, rồi cũng chết; huống chi thân phận yếu hèn của ta, sao lại tránh khỏi được cái chết.

212. Cái chết có thể đến bất ngờ: chẳng có dấu hiệu nào báo trước ngày, giờ của cái chết; cuộc sống nầy bấp bênh, như bị người đao phủ cầm dao đuổi theo sau chực giết mình bất cứ lúc nào.

213. Cuộc sống chỉ trong sát-na: thật ra, cuộc sống chỉ xảy ra trong một sát-na ngắn ngủi, hễ hơi thở thổi ra mà chẳng thấy có hơi thở hít vào, là cuộc đời đi đứt!

22) Bởi các lẽ trên, thường quán niệm luôn luôn trong tâm, khiến ta cảm thấy cần phải tự thúc dục lo tu tập để sớm được giải thoát khỏi cảnh sanh tử, sớm chứng được cảnh vô sanh của Niết-bàn.

3) Niệm Thân bất tịnh nhằm mục tiêu phá ngã kiến.

31) Dưới lớp áo quần tươm tất, tấm thân vật chất xem như sạch sẽ, thanh khiết; nhưng thật ra, bên trong chứa đầy các chất bất tịnh, như máu mủ, đờm dãi, mồ hôi, phẩn và nước tiểu. Chỉ cần quay Niệm Thân vào bên trong để quán sát thấy hàng vạn con vi trùng đang đục khoét. Như thế, còn bụng dạ nào mà tríu mến, luyến ái tấm thân ấy như một vật trân quí tinh khiết nữa.

311. Mười ba cách quán tưởng Thân bất tịnh, được Luận trình bày chi tiết, có thể tóm gọn lại thành: (1) vì sanh sống trong một môi trường bất tịnh, nên Thân cũng bất tịnh; (2) bên trong Thân có nhiều chất bất tịnhcác loại vi trùng; (3) Thân nầy phải chịu cảnh bịnh hoạn, già lão, dầu có vẽ vời cho đẹp thêm ra đi cũng chẳng làm thay đổi được.

312. Chẳng cần nhớ đủ 29 tuần lễ thai nhi hình thành trong bụng mẹ, chẳng cần nhớ hết tên các loại vi trùng trong cơ thể, ta cũng biết bên trong chứa đầy các chất bất tịnhdẹp bỏ lòng tríu mến quá đáng vào tấm thân vật chất, để có đủ thời giờ lo cho tấm thân "tinh thần"(= tâm).

32) Dẹp bỏ tà kiến về Ngã kiến:

321. Sự đồng hoá tấm thân nầy với Ngã: từ lúc ra chào đời cho đến hiện nay, ta thường vướng phải tà kiến xem tấm thân nầy là chính ta, coi đó như là cái Ngã cần nâng niu, quí trọng. Sai! Thân nầy đâu có thuộc về Ta, vì khi nó bịnh hoạn, Ta có thể ra lịnh cho nó hết bịnh chăng? Thân nầy già lão, da nhăn nhíu, Ta có thể làm cho nó trở lại hồng hào tươi thắm được chăng?

322. Bỏ được thân kiến là chứng được một phần của đạo Tu-đà-huờn, các phần còn lại là mạn, nghi giới cấm thủ. Chẳng phải cứ nói "tôi chẳng xem thân nầy là tôi" đủ, cần phải hành động cụ thể chứng tỏ mình đã dẹp bỏ thân kiến: nghe ai chê mình xấu trai, chẳng xụ mặt xuống, cứ thản nhiên, đó mới thật sự là xem nhẹ cái tự ngã!

323. Quán Thân bất tịnh thường đưa đến tâm trạng chán ghét thân nầy; rồi từ đó đí đến ý nghĩ chẳng thèm chăm sóc đến nó nữa. Đó là một cực đoan cần tránh, cũng như cực đoan xem thân là trọng. Hãy giữ một thái độ trung hoà, lo săn sóc thân mà chẳng luyến ái thân, nên nhớ rằng, sanh được thân người, với đầy đủ các khả năng là điều quí báu vô cùng, hãy nhìn đến loài thú vật, làm sao có đủ thân và tâm như loài người. Và do đó, cần nên luôn luôn tự thúc dục mình mau mau tu tập để sớm được giải thoát.

4) Hãy tập nếm hương vị của Niệm An tịch.

Nơi trang 179, Luận văn trình bày cặn kẽ các hiệu quả của Niệm An tịch trong việc vượt qua theo thứ tự chín cấp Thiền Định. Đây là kết quả của công phu toạ thiền của các bực thiền giả mà trình độ đã đến bực thượng thừa; Luận văn chẳng nghĩ đến những kẻ còn sơ cơ mới bước chơn vào việc tu tập! Thật ra, niệm An tịch chẳng phải dành riêng cho các bực cao cấp, mà ngay những người mới tập Thiền đúng cách, nếu biết ý thức, thì cũng hưởng được hương vị đậm đà của Niệm An tịch. Hưởng cách nào?

- Sau khi tập bốn hơi thở đầu của nhóm Niệm thân, và hơi thở bắt đầu điều hoà, ra vào thong thả, thì tâm hành giả đã lắng yên. Đấy là lúc niệm An tịch từ từ khởi lên, chỉ cần có chút ý thức là nhận ngay ra được. Nhận thấy những gì? Thấy trong tâm, chỉ còn theo dõi hơi thở, bao nhiêu phiền muộn của cuộc đời dường như tan biến, dẹp qua bên, chẳng cần chút cố gắng; lại thấy sự yên vắng từ nơi khung cảnh xung quanh thấm dần vào bên trong, cũng vắng lặng; thấy rõ ràng có sự yên vắng vừa bên trong lẫn bên ngoài! Còn đòi chi hơn! Đó là giây phút hiện tại yên vắng. Hãy ý thức đến phút giây đó, và cứ để cho mọi việc trôi qua, cùng hoà nhịp với hơi thở điều hoà ra vào thong thả.

- Việc thọ hưởng phút hiện tại yên vắng đó tùy thuộc vào mỗi hành giả. Lâu dài, thích thú, êm ả hay không, tự mình mình biết, chẳng thể dùng lời nói mô tả rõ ra được, tựa như chính mình đang thưởng thức ngụm nước mát lạnh từ từ thấm vào cổ, vào họng, vào bụng vậy! Nhưng chớ tham đắm quá, biết như thế và cứ để cho như thế mà thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11638)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11118)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12564)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17987)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10171)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15372)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12689)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19669)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13113)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12672)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11855)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10906)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13627)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11486)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19705)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant