Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm hiểu Phẩm 9: Năm Thần Thông

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7897)
Phần Tìm hiểu Phẩm 9: Năm Thần Thông

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm hiểu Phẩm 9: Năm Thần Thông


Chuyển tiếp: Các đề mục quán tưởng được chỉ dạy rõ ràng ở hai Phẩm 7 và 8 vừa qua, có mục đích giúp tâm hành giả đắc được định lực. Khi định lực đã được tự tại, hành giả nhập và xuất ra Định một cách dễ dàng và an tường ở bốn cấp Thiền, nếu muốn tu tập tiếp để đắc được các Thần Thông, thì Phẩm 9 nầy sẽ trình bày cách thức hành trì.

075. Đắc Thần thông chẳng phải là mục tiêu chánh của việc tu tập để được giải thoát.

Theo Kinh sách, đắc thần thông vẫn chưa được hoàn toàn giải thoát, vì phiền não vẫn còn chưa được diệt tận, và nghiệp lực vẫn còn tác động. Vì lẽ đó, việc tu tập Thần thông chưa phải là mục tiêu chánh yếu cho việc giải thoát khỏi cảnh sanh tử của Luân hồi.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài thường nhắc nhở các Tỳ-kheo rằng việc tu tập theo Chánh pháp phải nhằm mục tiêu tận diệt các lậu hoặc để được giải thoát; việc đắc thần thông không phải là việc chánh yếu, chớ có mong cầu, vì một khi giới hạnh thanh tịnh, định lực thâm sâu, trí huệ khai triển thì việc đắc thần thông tự nó sẽ đến. Vả lại, Ngài cấm hẳn việc thi triển thần thông trong khi đi hoá độ chúng sanh, vì làm như thế, tuy được dân chúng có phần thán phục nhưng chẳng vì thế mà họ thật tình tuân phục theo Chánh pháp.

Bởi các lẽ đó, khi học qua Phẩm 9, hành giả chớ nên quá mong cầu đắc được thần thông, hay cố thi triển một vài thắng pháp, để được ngưỡng mộ, vì vẫn còn xa với mục tiêu được hoàn toàn giải thoát.

077. Dàn bài của Phẩm 9: Năm Thần Thông:

I. Nhập đề: Khi đắc Định lực ở bốn cấp Thiền được tự tại, nhập và xuất định được an tường, hành giả có thể tu tập về Năm Thần Thông: thân thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông thiên nhãn thông.

II. Thân bài: Thân bài chia ra làm năm phần, mỗi phần nói về một loại Thần Thông:

A. Thân thông: Thân thôngthân thể tùy ý muốn mà biến hoá. Có ba loại biến hoá:

1. Thọ trì biến hoá: một người biến thành nhiều, nhiều người biến thành một người.

2. Tác biến hoá: bỏ hiện thân hoá thành thân trẻ nhỏ, hoặc thân rồng, hoặc thân thiên chúng (= chúng sanh cõi Trời)

3. Tùy ý biến hoá: ngoài hiện thân ra, biến thêm các hoá thân khác có đầy đủ các bộ phận, sanh hoạt như hiện thân

4. Các hình thức biến hoá:

41. Trí biến: lấyvô thường tưởng bỏ thường tưởng;
42. Định biến:
dùng
Định lực vượt qua các cấp Thiền và Định;
43. Thánh biến: ở nơi kinh tởm, khởi lên
được tưởng chẳng kinh tởm;
44. Tùy nghiệp biến: do nghiệp sanh biến hiện như loài chim bay giữa Hư-không;
45. Minh thuật biến:
dùng bùa chú mà biến hoá
46.Phương tiện biến:
do hạnh xuất ly mà biến diệt hết các phiền não như bực A-la-hán.

5. Ai tu biến hiện được? Người đắc Tứ Thiền tự tại.

6. Khởi tu như thế nào? Do tu dục định, đắc các thắng hành của bốn như ý túc:

61. Thân tùy theo Tâm, Tâm tùy theo Thân,
62.
An thân nơi Tâm, an tâm nơi Thân;
63.
Do Thân mà Tâm biến, do Tâm mà Thân biến;
64.
Do Thân mà Tâm thọ trì; do Tâm, Thân thọ trì

7. Khởi lạc tưởng (tưởng vui) và khinh tưởng (tưởng nhẹ)

- cho bám dính vào thân, tu tâm để thân nhẹ nhàng, bay bổng, nhập vào Tứ Thiền rồi qua Hư-không định
- thân nhẹ nhàng cất lên cao, tập lần lần vươn lên
đến Hư-không, qua Nhứt thiết nhập Hư-không;
- dùng tâm tu hành các Nhứt thiết nhập
Điạ và Thuỷ,
- dùng trí thọ trì, thân biến hiện xuyên qua vách, chui xuống
đất, đi trên mặt nước, biến thành nhiều người

8. Thọ trì biến dùng ba cách di duyển: (1) bộ hành, (2) tâm hành và (3) phong hành mà đi trong Hư-không.

9. Tác biến tu hành bốn như ý túc, nhập vào Tứ Thiền, biến hiện thân trở thành trẻ nhỏ, thành núi, biển...

10. Tùy ý biến, nhập vào Tứ Thiền, hiện thân biến ra nhiều hoá thân cử động, nói năng như hiện thân.

B. Thiên nhĩ:

1. Thiên nhĩ là lỗ tai vượt hơn tai người thường, nghe được âm thanh các cõi khác.

2. Tu tập thiên nhĩ cách nào?

21. Nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, theo lỗ tai thịt lắng nghe tiếng xa, gần, biết rõ xa, gần;
22. Khởi lên thanh tướng tế nhị lần lượt nghe bốn phương, tập khởi lên nhĩ giới thanh tịnh;
23. Dùng nhĩ giới thanh tịnh nghe
được hai thứ tiếng: nhơn thanh thiên thanh.

3. Công đức của thiên nhĩ.

C. Tha tâm thông:

1. Tha tâm trí: Khả năng biết được tâm tưởng kẻ khác.

2. Tu tâp tha tâm thông cách nào?

21. Tu tập Nhứt thiết nhập Quang (= Ánh sáng), nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, khiến ánh sáng tràn ngập khắp thân tâm, mở thiên nhãn nhìn thấy sắc của tâm mình, và các sắc của mọi tâm hành thay đổi khác màu nhau;
22. Nhận thấy sự khác màu của tâm biến chuyển theo khi mừng, vui, giận, ghét, ái dục, v.v.
23. Màu kem khi tâm vui, màu vàng khi tâm xả, màu
đen khi tâm giận, màu đục ngầu khi vô minh
24. Dùng thiên nhãn nhìn màu sắc nơi tâm kẻ khác mà biết
được các tâm hành tương ưng.

3. Công đức của Tha tâm thông.

D. Túc mạng thông:

1. Túc mạng thông: khả năng nhớ biết được kiếp trước

2. Tu tập Túc mạng thông như thế nào?

21. Tu tập hai Nhứt thiết nhập, nhập và xuất Tứ Thiền, thì có thể khởi lên túc mạng thông.
22. Tu tập bốn như ý túc
được tự tại, rồi dùng tâm thanh tịnh nhớ lại lần lượt các việc trong ngày, hai ngày..., một tuần, một tháng, một năm... lần lần cho đến lúc mới sanh;
23. Tâm và tâm sở hiện sanh liền tương ứng với tâm và tâm sở tiền kiếp, rồi dùng quán nhân duyên nhớ ngược lại thức lưu chuyển,
để biết sanh ra tại nơi nầy, ở nơi kia,...
24. Tiếp tục tu như thế như lau chùi tấm gương tâm,
đến lúc đắc được tự tại.

3. Công đức của Túc mạng thông.

E. Thiên nhãn:

1. Thiên nhãn: khả năng nhìn xa vào các cõi khác, vượt hơn mắt thịt.

2. Tu tập Thiên nhãn cách nào?

21. Tu tập bốn như ý túc đã được tự tại, tu Nhứt thiết nhập Quang (Ánh sáng), nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, khởi tác ý về Quang tưởng và Nhựt tưởng (ý tưởng về ngày), tu tập sao cho Tâm tràn đầy Ánh sáng,..
22. Dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy sự sanh tử của chúng sanh nơi nầy, nơi khác, do theo nghiệp
đã tạo trước kia.
23. Muốn khởi thiên nhãn, trước phải tận diệt hết tất cả phiền não, và khởi tinh tấn vừa phải
để vào chánh định.

3. Công đức của Thiên nhãn.

III. Kết luận: Năm loại Thần Thông kể trên thuộc về Thần Thôngthế gian, ở cõi sắc giới còn lậu hoặc.

078. Tìm hiểu nghiã các chữ khó trong Phẩm 9:

Thần Thông = các khả năng của Thân tâm vượt hơn người thường, như thiên nhãn, thiên nhĩ, túc mạng thông, tha tâm thông, biến hoá. Luận văn giải thích rất rõ các loại Thần Thông nầy.

Hoá thân: Hoá = biến hoá, Thân = thân thể. Ngoài tấm thân hiện có, người có Thần Thông có thể biến hoá thêm nhiều thân hình khác, ở các nơi khác, cũng cử động, nói năng như người thường, nhưng chẳng có mạng sống.

Minh thuật biến: Minh = sáng, khéo; Thuật = phương cách, cách thức, mánh khoé. Ở đây, chữ Minh thuật chỉ đến các bùa chú, các phương tiện siêu phàm.

Như ý túc: Như ý = được như ý muốn, hễ tâm khởi lên ý muốn, là được ngay điều mình muốn. Túc = đủ, đầy đủ.

Bốn như ý túc được Luận văn kể rõ, xin xem lại. Tu tập bốn như ý túc bằng cách tập luyện đầy đủ bốn chánh cần (tức là chánh tịnh tấn).

Dục định: Dục = muốn; định = tình trạng đang nhập đînh, chẳng xao động, lắng yên. Ở đây, chữ dục định chẳng có nghiã xấu, dục chỉ chỉ vào ý định, chẳng có nghiã là ham mê như chữ tham dục.

Khinh tưởng: Khinh = nhẹ nhàng; Tưởng = ý tưởng. Khởi lên khinh tưởng là trong tâm khởi lên ý muốnđược thân hình nhẹ nhàng. Quên được ý niệm sức nặng cơ thể đi.

Tầm: Xem lại trang 415, Phẩm 8; đơn vị đo chiều dài.

Tiệm tiến: Tiệm = từ từ, theo thứ lớp; Tiến = đi tới. Phương tiện tiệm tiến là cách bước tới từ từ, tu tập qua mọi giai đoạn, chẳng vượt bỏ giai đoạn nào.

Chỉ pháp: Chỉ = ngưng lại, đình chỉ; Pháp = phép. Chỉ pháp là phép đình chỉ lại, ngưng lại, chẳng tiến tới nữa.

Bộ hành = đi bộ, đi bằng chơn

Tâm hành: đây, trang 218 Luận văn, tâm hành có nghiã là đi bằng tâm, tức là khởi lên Khinh tưởng, khiến thân trở nên nhẹ nhàng mà bay đi.

Phong hành; Phong = gió; Hành = đi. Phong hành là nương theo gió mà di chuyển.

A-tu-la: phiên âm chữ Pàli Asura, bực thần linh, có nhiều thần thông, tánh hay nóng giận, thường gây chiến với các bực Trời.

Ái dục: Ái = thương yêu, Dục = ham muốn. Ái dục có thêm ý đam mê trong sự thương yêu.

Túc mạng: Túc = đã qua; Mạng = đời sống; Túc mạng là cuộc đời, đời sống trong kiếp trước.

Tiền kiếp: Tiền = trước kia; Kiếp = đời sống; chữ Kiếp phiên âm chữ Kappa, cuộc sống kéo dài nhiều triệu năm. Còn gọi là Đại kiếp, Trung Kiếp Tiểu Kiếp. Một tiểu kiếp tính ra hơn 16 triệu năm; một trung kiếp bằng hai mươi tiểu kiếp, và một đại kiếp bằng bốn trung kiếp.

Sơ sanh: Sơ = ban sơ, lúc khởi đầu; Sanh = ra chào đời. Sơ sanh trái nghiã với hiện sanh, đang sống; Vị sanh là chưa sanh, sẽ sanh vào thời vị lai.

Tam-muội: Chánh định; phiên âm chữ Pàli Samàpatti.

Quang tưởng: Quang = ánh sáng; Tưởng = ý tưởng.

079. Nhận xét về Phẩm 9: Năm Thần Thông.

Nơi Phẩm 9 nầy, Luận văn chỉ cách tu tập các khả năng siêu phàm, gọi là năm thần thông, thân thể biến hiện thành nhiều thân khác, tai có thể nghe cả âm thanh nơi cõi sắc giới, biết được đời sống thuộc về các kiếp trước, mắt có thể nhìn thấy xa ngàn dặm, v.v. Ngày nay, nơi các bực tu hành, ta chẳng thấy việc thi triển các thần thông, như trong Kinh sách có nhắc lại việc Ngài Xá-lợi-phất, Ngài Mục-kiền-liên thực hành thần thông vào thời Đức Phật còn tại thế. Đó là vì việc thi triển thần thông chẳng phải là việc thông thường được thấy luôn; nhưng chẳng vì thế, mà quả quyết thật sự chẳng có các thần thông. Tại sao? Vì đối với một việc ta chưa từng thấy, ta chẳng thể nào quyết đoán việc đó chẳng có thật được; thái độ dè dặt, chờ khi thấy mới tin là đúng, nhưng chẳng nên cố bảo rằng đó là không. Như tiếng nói, âm thanh theo làn sóng điện vang khắp hoàn cầu, ta chẳng thấy bằng mắt thịt, chẳng nghe bằng tai phàm, nhưng vẫn là điều có thật.

Nhưng đối với những hành giả còn sơ cơ, chẳng nên vì mê thích, vì thán phục các Thần Thôngđể cho các bọn buôn Thần bán Thánh, nhan nhản ngày nay, lừa gạt mình. Vả lại, khi đọc qua Luận văn, ta thấy rõ việc tu tập các Thần Thông, đều bắt đầu ngay trên sự việc thực tế hằng ngày trước. Thí dụ như thiên nhãn thông khởi đầu bằng nhìn các màu sắc thanh tịnh, như thiên nhĩ thông bắt đầu tu tập nghe chính các âm thanh thông thường từ gần đến xa, túc mạng thông khởi công nhớ lại các việc hằng ngày trong một ngày, hai ngày rồi lâu đến cả tuần, cả tháng trước. Như thế, chẳng có chi là quá siêu phàm, hay mầu nhiệm, chỉ tùy theo định lực có thâm hậu hay không mới có thể tu tập từ từ đắc các thắng pháp đó. Xét cho cùng, nếu còn chưa đắc được Thần Thông, thì cũng nên xét kỹ lại định lực của chính mình, chớ đừng nôn nóng nghe theo lời dạy vu vơ của bàng môn tả đạo mà phải lâm vào những căn bịnh Thiền khó chữa trị.

Những công dụng của các Thần Thông, như nhìn thấy xa muôn dặm, nghe tiếng cách ngàn trùng, nhớ các khoảng đời trước, biết được tâm trạng của kẻ khác, du hành lên Không gian, sự tiến bộ ngày nay của Khoa học đã lần lượt đạt được nhiều kết quả rất ngoạn mục, nào có thua chi các Thần Thông. Các phương tiện truyền thông tối tân, các viễn vọng kính, các phi thuyền không gian lần lượt đưa con người rời khỏi cuộc sống dính chặt vào quả đất nầy. Các sự khám phá về Vô thức trong khoa Phân tâm học cũng lần lần trình bày các chứng cớ của đời sống trước cuộc sống hiện tại.

Bấy nhiêu lý do đó cũng đủ khiến cho ta chớ quá mong cầu đắc được Thần Thông, mà hãy cứ nhìn đến mục tiêu chánh yếu của việc tu tập là:

- giải thoát khỏi các phiền não, để cho thân tâm được tự tại, trong cảnh an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12497)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11643)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28808)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53055)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12408)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26046)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13319)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13131)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14511)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20485)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18995)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19568)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12185)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12316)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13862)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17194)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18344)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11941)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12884)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18909)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18423)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant