Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần Tìm hiểu Phẩm 9: Năm Thần Thông

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7876)
Phần Tìm hiểu Phẩm 9: Năm Thần Thông

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm hiểu Phẩm 9: Năm Thần Thông


Chuyển tiếp: Các đề mục quán tưởng được chỉ dạy rõ ràng ở hai Phẩm 7 và 8 vừa qua, có mục đích giúp tâm hành giả đắc được định lực. Khi định lực đã được tự tại, hành giả nhập và xuất ra Định một cách dễ dàng và an tường ở bốn cấp Thiền, nếu muốn tu tập tiếp để đắc được các Thần Thông, thì Phẩm 9 nầy sẽ trình bày cách thức hành trì.

075. Đắc Thần thông chẳng phải là mục tiêu chánh của việc tu tập để được giải thoát.

Theo Kinh sách, đắc thần thông vẫn chưa được hoàn toàn giải thoát, vì phiền não vẫn còn chưa được diệt tận, và nghiệp lực vẫn còn tác động. Vì lẽ đó, việc tu tập Thần thông chưa phải là mục tiêu chánh yếu cho việc giải thoát khỏi cảnh sanh tử của Luân hồi.

Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài thường nhắc nhở các Tỳ-kheo rằng việc tu tập theo Chánh pháp phải nhằm mục tiêu tận diệt các lậu hoặc để được giải thoát; việc đắc thần thông không phải là việc chánh yếu, chớ có mong cầu, vì một khi giới hạnh thanh tịnh, định lực thâm sâu, trí huệ khai triển thì việc đắc thần thông tự nó sẽ đến. Vả lại, Ngài cấm hẳn việc thi triển thần thông trong khi đi hoá độ chúng sanh, vì làm như thế, tuy được dân chúng có phần thán phục nhưng chẳng vì thế mà họ thật tình tuân phục theo Chánh pháp.

Bởi các lẽ đó, khi học qua Phẩm 9, hành giả chớ nên quá mong cầu đắc được thần thông, hay cố thi triển một vài thắng pháp, để được ngưỡng mộ, vì vẫn còn xa với mục tiêu được hoàn toàn giải thoát.

077. Dàn bài của Phẩm 9: Năm Thần Thông:

I. Nhập đề: Khi đắc Định lực ở bốn cấp Thiền được tự tại, nhập và xuất định được an tường, hành giả có thể tu tập về Năm Thần Thông: thân thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông thiên nhãn thông.

II. Thân bài: Thân bài chia ra làm năm phần, mỗi phần nói về một loại Thần Thông:

A. Thân thông: Thân thôngthân thể tùy ý muốn mà biến hoá. Có ba loại biến hoá:

1. Thọ trì biến hoá: một người biến thành nhiều, nhiều người biến thành một người.

2. Tác biến hoá: bỏ hiện thân hoá thành thân trẻ nhỏ, hoặc thân rồng, hoặc thân thiên chúng (= chúng sanh cõi Trời)

3. Tùy ý biến hoá: ngoài hiện thân ra, biến thêm các hoá thân khác có đầy đủ các bộ phận, sanh hoạt như hiện thân

4. Các hình thức biến hoá:

41. Trí biến: lấyvô thường tưởng bỏ thường tưởng;
42. Định biến:
dùng
Định lực vượt qua các cấp Thiền và Định;
43. Thánh biến: ở nơi kinh tởm, khởi lên
được tưởng chẳng kinh tởm;
44. Tùy nghiệp biến: do nghiệp sanh biến hiện như loài chim bay giữa Hư-không;
45. Minh thuật biến:
dùng bùa chú mà biến hoá
46.Phương tiện biến:
do hạnh xuất ly mà biến diệt hết các phiền não như bực A-la-hán.

5. Ai tu biến hiện được? Người đắc Tứ Thiền tự tại.

6. Khởi tu như thế nào? Do tu dục định, đắc các thắng hành của bốn như ý túc:

61. Thân tùy theo Tâm, Tâm tùy theo Thân,
62.
An thân nơi Tâm, an tâm nơi Thân;
63.
Do Thân mà Tâm biến, do Tâm mà Thân biến;
64.
Do Thân mà Tâm thọ trì; do Tâm, Thân thọ trì

7. Khởi lạc tưởng (tưởng vui) và khinh tưởng (tưởng nhẹ)

- cho bám dính vào thân, tu tâm để thân nhẹ nhàng, bay bổng, nhập vào Tứ Thiền rồi qua Hư-không định
- thân nhẹ nhàng cất lên cao, tập lần lần vươn lên
đến Hư-không, qua Nhứt thiết nhập Hư-không;
- dùng tâm tu hành các Nhứt thiết nhập
Điạ và Thuỷ,
- dùng trí thọ trì, thân biến hiện xuyên qua vách, chui xuống
đất, đi trên mặt nước, biến thành nhiều người

8. Thọ trì biến dùng ba cách di duyển: (1) bộ hành, (2) tâm hành và (3) phong hành mà đi trong Hư-không.

9. Tác biến tu hành bốn như ý túc, nhập vào Tứ Thiền, biến hiện thân trở thành trẻ nhỏ, thành núi, biển...

10. Tùy ý biến, nhập vào Tứ Thiền, hiện thân biến ra nhiều hoá thân cử động, nói năng như hiện thân.

B. Thiên nhĩ:

1. Thiên nhĩ là lỗ tai vượt hơn tai người thường, nghe được âm thanh các cõi khác.

2. Tu tập thiên nhĩ cách nào?

21. Nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, theo lỗ tai thịt lắng nghe tiếng xa, gần, biết rõ xa, gần;
22. Khởi lên thanh tướng tế nhị lần lượt nghe bốn phương, tập khởi lên nhĩ giới thanh tịnh;
23. Dùng nhĩ giới thanh tịnh nghe
được hai thứ tiếng: nhơn thanh thiên thanh.

3. Công đức của thiên nhĩ.

C. Tha tâm thông:

1. Tha tâm trí: Khả năng biết được tâm tưởng kẻ khác.

2. Tu tâp tha tâm thông cách nào?

21. Tu tập Nhứt thiết nhập Quang (= Ánh sáng), nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, khiến ánh sáng tràn ngập khắp thân tâm, mở thiên nhãn nhìn thấy sắc của tâm mình, và các sắc của mọi tâm hành thay đổi khác màu nhau;
22. Nhận thấy sự khác màu của tâm biến chuyển theo khi mừng, vui, giận, ghét, ái dục, v.v.
23. Màu kem khi tâm vui, màu vàng khi tâm xả, màu
đen khi tâm giận, màu đục ngầu khi vô minh
24. Dùng thiên nhãn nhìn màu sắc nơi tâm kẻ khác mà biết
được các tâm hành tương ưng.

3. Công đức của Tha tâm thông.

D. Túc mạng thông:

1. Túc mạng thông: khả năng nhớ biết được kiếp trước

2. Tu tập Túc mạng thông như thế nào?

21. Tu tập hai Nhứt thiết nhập, nhập và xuất Tứ Thiền, thì có thể khởi lên túc mạng thông.
22. Tu tập bốn như ý túc
được tự tại, rồi dùng tâm thanh tịnh nhớ lại lần lượt các việc trong ngày, hai ngày..., một tuần, một tháng, một năm... lần lần cho đến lúc mới sanh;
23. Tâm và tâm sở hiện sanh liền tương ứng với tâm và tâm sở tiền kiếp, rồi dùng quán nhân duyên nhớ ngược lại thức lưu chuyển,
để biết sanh ra tại nơi nầy, ở nơi kia,...
24. Tiếp tục tu như thế như lau chùi tấm gương tâm,
đến lúc đắc được tự tại.

3. Công đức của Túc mạng thông.

E. Thiên nhãn:

1. Thiên nhãn: khả năng nhìn xa vào các cõi khác, vượt hơn mắt thịt.

2. Tu tập Thiên nhãn cách nào?

21. Tu tập bốn như ý túc đã được tự tại, tu Nhứt thiết nhập Quang (Ánh sáng), nhập vào Tứ Thiền và xuất ra an tường, khởi tác ý về Quang tưởng và Nhựt tưởng (ý tưởng về ngày), tu tập sao cho Tâm tràn đầy Ánh sáng,..
22. Dùng Thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy sự sanh tử của chúng sanh nơi nầy, nơi khác, do theo nghiệp
đã tạo trước kia.
23. Muốn khởi thiên nhãn, trước phải tận diệt hết tất cả phiền não, và khởi tinh tấn vừa phải
để vào chánh định.

3. Công đức của Thiên nhãn.

III. Kết luận: Năm loại Thần Thông kể trên thuộc về Thần Thôngthế gian, ở cõi sắc giới còn lậu hoặc.

078. Tìm hiểu nghiã các chữ khó trong Phẩm 9:

Thần Thông = các khả năng của Thân tâm vượt hơn người thường, như thiên nhãn, thiên nhĩ, túc mạng thông, tha tâm thông, biến hoá. Luận văn giải thích rất rõ các loại Thần Thông nầy.

Hoá thân: Hoá = biến hoá, Thân = thân thể. Ngoài tấm thân hiện có, người có Thần Thông có thể biến hoá thêm nhiều thân hình khác, ở các nơi khác, cũng cử động, nói năng như người thường, nhưng chẳng có mạng sống.

Minh thuật biến: Minh = sáng, khéo; Thuật = phương cách, cách thức, mánh khoé. Ở đây, chữ Minh thuật chỉ đến các bùa chú, các phương tiện siêu phàm.

Như ý túc: Như ý = được như ý muốn, hễ tâm khởi lên ý muốn, là được ngay điều mình muốn. Túc = đủ, đầy đủ.

Bốn như ý túc được Luận văn kể rõ, xin xem lại. Tu tập bốn như ý túc bằng cách tập luyện đầy đủ bốn chánh cần (tức là chánh tịnh tấn).

Dục định: Dục = muốn; định = tình trạng đang nhập đînh, chẳng xao động, lắng yên. Ở đây, chữ dục định chẳng có nghiã xấu, dục chỉ chỉ vào ý định, chẳng có nghiã là ham mê như chữ tham dục.

Khinh tưởng: Khinh = nhẹ nhàng; Tưởng = ý tưởng. Khởi lên khinh tưởng là trong tâm khởi lên ý muốnđược thân hình nhẹ nhàng. Quên được ý niệm sức nặng cơ thể đi.

Tầm: Xem lại trang 415, Phẩm 8; đơn vị đo chiều dài.

Tiệm tiến: Tiệm = từ từ, theo thứ lớp; Tiến = đi tới. Phương tiện tiệm tiến là cách bước tới từ từ, tu tập qua mọi giai đoạn, chẳng vượt bỏ giai đoạn nào.

Chỉ pháp: Chỉ = ngưng lại, đình chỉ; Pháp = phép. Chỉ pháp là phép đình chỉ lại, ngưng lại, chẳng tiến tới nữa.

Bộ hành = đi bộ, đi bằng chơn

Tâm hành: đây, trang 218 Luận văn, tâm hành có nghiã là đi bằng tâm, tức là khởi lên Khinh tưởng, khiến thân trở nên nhẹ nhàng mà bay đi.

Phong hành; Phong = gió; Hành = đi. Phong hành là nương theo gió mà di chuyển.

A-tu-la: phiên âm chữ Pàli Asura, bực thần linh, có nhiều thần thông, tánh hay nóng giận, thường gây chiến với các bực Trời.

Ái dục: Ái = thương yêu, Dục = ham muốn. Ái dục có thêm ý đam mê trong sự thương yêu.

Túc mạng: Túc = đã qua; Mạng = đời sống; Túc mạng là cuộc đời, đời sống trong kiếp trước.

Tiền kiếp: Tiền = trước kia; Kiếp = đời sống; chữ Kiếp phiên âm chữ Kappa, cuộc sống kéo dài nhiều triệu năm. Còn gọi là Đại kiếp, Trung Kiếp Tiểu Kiếp. Một tiểu kiếp tính ra hơn 16 triệu năm; một trung kiếp bằng hai mươi tiểu kiếp, và một đại kiếp bằng bốn trung kiếp.

Sơ sanh: Sơ = ban sơ, lúc khởi đầu; Sanh = ra chào đời. Sơ sanh trái nghiã với hiện sanh, đang sống; Vị sanh là chưa sanh, sẽ sanh vào thời vị lai.

Tam-muội: Chánh định; phiên âm chữ Pàli Samàpatti.

Quang tưởng: Quang = ánh sáng; Tưởng = ý tưởng.

079. Nhận xét về Phẩm 9: Năm Thần Thông.

Nơi Phẩm 9 nầy, Luận văn chỉ cách tu tập các khả năng siêu phàm, gọi là năm thần thông, thân thể biến hiện thành nhiều thân khác, tai có thể nghe cả âm thanh nơi cõi sắc giới, biết được đời sống thuộc về các kiếp trước, mắt có thể nhìn thấy xa ngàn dặm, v.v. Ngày nay, nơi các bực tu hành, ta chẳng thấy việc thi triển các thần thông, như trong Kinh sách có nhắc lại việc Ngài Xá-lợi-phất, Ngài Mục-kiền-liên thực hành thần thông vào thời Đức Phật còn tại thế. Đó là vì việc thi triển thần thông chẳng phải là việc thông thường được thấy luôn; nhưng chẳng vì thế, mà quả quyết thật sự chẳng có các thần thông. Tại sao? Vì đối với một việc ta chưa từng thấy, ta chẳng thể nào quyết đoán việc đó chẳng có thật được; thái độ dè dặt, chờ khi thấy mới tin là đúng, nhưng chẳng nên cố bảo rằng đó là không. Như tiếng nói, âm thanh theo làn sóng điện vang khắp hoàn cầu, ta chẳng thấy bằng mắt thịt, chẳng nghe bằng tai phàm, nhưng vẫn là điều có thật.

Nhưng đối với những hành giả còn sơ cơ, chẳng nên vì mê thích, vì thán phục các Thần Thôngđể cho các bọn buôn Thần bán Thánh, nhan nhản ngày nay, lừa gạt mình. Vả lại, khi đọc qua Luận văn, ta thấy rõ việc tu tập các Thần Thông, đều bắt đầu ngay trên sự việc thực tế hằng ngày trước. Thí dụ như thiên nhãn thông khởi đầu bằng nhìn các màu sắc thanh tịnh, như thiên nhĩ thông bắt đầu tu tập nghe chính các âm thanh thông thường từ gần đến xa, túc mạng thông khởi công nhớ lại các việc hằng ngày trong một ngày, hai ngày rồi lâu đến cả tuần, cả tháng trước. Như thế, chẳng có chi là quá siêu phàm, hay mầu nhiệm, chỉ tùy theo định lực có thâm hậu hay không mới có thể tu tập từ từ đắc các thắng pháp đó. Xét cho cùng, nếu còn chưa đắc được Thần Thông, thì cũng nên xét kỹ lại định lực của chính mình, chớ đừng nôn nóng nghe theo lời dạy vu vơ của bàng môn tả đạo mà phải lâm vào những căn bịnh Thiền khó chữa trị.

Những công dụng của các Thần Thông, như nhìn thấy xa muôn dặm, nghe tiếng cách ngàn trùng, nhớ các khoảng đời trước, biết được tâm trạng của kẻ khác, du hành lên Không gian, sự tiến bộ ngày nay của Khoa học đã lần lượt đạt được nhiều kết quả rất ngoạn mục, nào có thua chi các Thần Thông. Các phương tiện truyền thông tối tân, các viễn vọng kính, các phi thuyền không gian lần lượt đưa con người rời khỏi cuộc sống dính chặt vào quả đất nầy. Các sự khám phá về Vô thức trong khoa Phân tâm học cũng lần lần trình bày các chứng cớ của đời sống trước cuộc sống hiện tại.

Bấy nhiêu lý do đó cũng đủ khiến cho ta chớ quá mong cầu đắc được Thần Thông, mà hãy cứ nhìn đến mục tiêu chánh yếu của việc tu tập là:

- giải thoát khỏi các phiền não, để cho thân tâm được tự tại, trong cảnh an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15757)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11055)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53607)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12952)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16503)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15374)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19148)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19915)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15544)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15335)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15139)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20308)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23906)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15454)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13015)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20065)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13265)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29009)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11683)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18265)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16637)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13226)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12788)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13229)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12959)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12848)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12997)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13524)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11695)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17710)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22574)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13432)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14318)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105725)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14592)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19758)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38403)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15512)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34665)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16045)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11317)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15640)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14016)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12818)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12482)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19358)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26997)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13105)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13457)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21579)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17950)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21859)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14193)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16054)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16098)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19081)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24760)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant