Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Thánh chủng tánh

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9059)
8. Thánh chủng tánh

KINH LĂNG GIÀ
LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM
(Phần 2)
QUYỂN THỨ NHÌ

- THÁNH CHỦNG TÁNH: Chia làm ba loại: Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Phật Thừa. Nếu Phàm phu vọng tưởng thì sanh Thanh Văn Thừa Chủng Tánh, vì chấp trước tự tướng cộng tướng, nên gọi là do vọng tưởng sanh khởi Thanh Văn Thừa Chủng Tánh. Đại Huệ! Cũng theo vọng tưởng mê hoặc kia mà sanh khởi Duyên Giác Thừa Chủng Tánh, nghĩa là ngay nơi mê hoặc tự tướng cộng tướng kia chẳng tự chấp trước mà khởi Duyên Giác Thừa Chủng Tánh. Tại sao người trí cũng theo sự mê hoặc kia mà khởi Phật Thừa Chủng Tánh? Vì giác được tự tâm hiện lượng ngoài tánh phi tánh, chẳng có tướng vọng tưởng, nên sanh khởi Phật Thừa Chủng Tánh, ấy gọi là ngay nơi mê hoặc kia mà khởi Phật Thừa Chủng Tánh.

- Lại đối với mỗi mỗi sự và tánh, phàm phu khởi vọng tưởng thì sanh phàm phu chủng tánh. Cái nghĩa gọi là chủng tánh chẳng phải hữu sự, cũng chẳng phải vô sự Đại Huệ! Ngay sự mê hoặc chẳng vọng tưởng kia, những tâm, ý, ý thức, lỗi tập khí, pháp tự tánh, pháp chuyển biến v.v... của bậc Thánh đều gọi là NHƯ, cho nên nói NHƯ lìa tâm. Ta nói câu này là hiển thị lìa tưởng, tức là cái thuyết lìa tất cả tư tưởng.

LƯợC GIẢI :

Tư tưởng có hai thứ: Thế lưu bố tưởngchấp trước tưởng. Phàm phu ở nơi tướng mê hoặc của Thế lưu bốt tưởng sanh khởi chấp trước tưởng, thì thành điên đảo tưởng. Bậc Thánh ngay nơi tướng mê hoặc của Thế lưu bố tưởng mà chẳng khởi chấp trước tưởng, nên không có điên đảo tưởng. Cho nên nói tướng mê hoặc là "THƯỜNG", cũng là "NHƯ", đều thuộc nghĩa này vậy.

Lược giải hết
 
 

CHÁNH VĂN :

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Mê hoặc là hữu hay vô?

Phật bảo Đại Huệ :

- Pháp như huyễn chẳng có tướng chấp trước. Nếu mê hoặc có tướng chấp trước thì tánh chấp trước chẳng thể diệt. Pháp duyên khởi của ta thuyết, ắt đồng như pháp Nhân Duyên Sanh của ngoại đạo.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Nếu mê hoặc như huyễn thì phải làm nhân cho mê hoặc khác?

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải nhân duyên mê hoặc nên chẳng có lỗi. Đại Huệ! Huyễn chẳng sanh lỗi, vì chẳng có vọng tưởng. Đại Huệ! Huyễn từ chỗ minh liễu sanh khởi, chẳng từ chỗ lỗi tập khí vọng tưởng của chính mình sanh khởi, cho nên chẳng có lỗi. Đại Huệ! Ấy là do tâm mê hoặc của phàm phu chấp trước, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Thánh chẳng thấy mê hoặc,

Trong đó cũng chẳng thật.

Trong đó nếu chơn thật,

Mê hoặc tức chơn thật.

Xa lìa tất cả mê,

Nếu còn có tướng sanh,

Ấy cũng là mê hoặc,

Bất tịnh như bệnh nhặm.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đã nói mê hoặc tức chơn thật, thì như huyễn tức phi huyễn, phi huyễn tức như huyễn. Chơn thể của phi huyễn chẳng có tương tự, nay nói phi huyễn, chẳng phải không thấy tất cả pháp như huyễn.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Vì chấp trước đủ thứ tướng huyễn nên nói tất cả pháp như huyễn ư? Hoặc vì chấp trước đủ thứ tướng phi huyễn mà nói tất cả pháp như huyễn ư? Thế Tôn! Nếu như huyễn và phi huyễn có tánh khác biệt, ắt phải có tánh chẳng như huyễn. Tại sao? Vì mỗi mỗi sắc tướng chẳng có nhân. Thế Tôn! Nếu mỗi mỗi sắc tướng chẳng có nhân mà hiện tướng như huyễn, thì chẳng có đủ thứ tướng huyễn để chấp trước, cho có tánh tương tựnhư huyễn.

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải đủ thứ tướng huyễn chấp trước tương tự, nói tất cả pháp như huyễn. Vì tất cả pháp chẳng thật, chóng diệt như điện, ấy là như huyễn. Ví như điện chớp hiện trong sát na, mới hiện liền diệt. Tất cả tánh như thế, đều chẳng thuộc nơi hữu và vô, chỉ do tự tâm vọng tưởng chấp có tự tướng cộng tướng, nếu quán sát tất cả pháp vô tánh, thì chẳng phải sự hiện sắc tướng chấp trước của phàm phu.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Phi huyễn chẳng thể dụ,

Thuyết pháp tánh như huyễn,

Chẳng thật như điện chớp,

Cho nên nói như huyễn.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Như Thế Tôn sở thuyết, tất cả tánh Vô Sanh như huyễn, vậy chẳng phải pháp sở thuyết của Thế Tôn trước sau trái nhau ư? Sao nói Vô Sanh tánh như huyễn?

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải ta nói "Vô Sanh tánh như huyễn" có lỗi trước sau trái nhau. Tại sao nói sanh mà vô sanh? Là dùng để giác hiện lượng nơi tự tâm, nói hữu phi hữu, ngoài tánh phi tánh, là phương tiện để hiện pháp Vô Sanh, chẳng phải cái thuyết của ta có lỗi trước sau trái nhau, vì bác bỏ cái thuyết nhân sanh của ngoại đạo, nên Ta thuyết tất cả tánh vô sanh. Đại Huệ! Ngoại đạo si mê, muốn cho hữu và vô hữu đều thật, vì chẳng biết do tự tâm vọng tưởng chấp trước đủ thứ nhân duyên mà sanh.

- Đại Huệ! Ta dùng cái thuyết Vô Sanh để thuyết, vì phá cái chấp hữu và vô. Đại Huệ! Ta thuyết tánh âm thanh (thanh giáo), là vì đệ tử Ta tạo đủ thứ nghiệp mà nhiếp thọ sanh tử, và phá những người chấp vô kiến, đoạn kiến. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa ác kiến hy vọng, chẳng biết tự tâm hiện lượng, vì khiến họ lìa các tướng tánh của tự tánh, nên thuyết tướng các pháp như huyễn; vì phá tướng chấp trước do nhân duyên sanh khởi của họ, nên nói tất cả pháp tướng tự tánh như mộng huyễn, là khiến lìa bả chấp trước ác kiến hy vọng tất cả pháp tự và tha, được thấy chỗ như thật, chẳng lập tà luận. Đại Huệ! Chỗ thấy tất cả pháp như thật, là siêu việt tự tâm hiện lượng.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Vô tác, tánh vô sanh,

Chấp tánh nhiếp sanh tử.

Quán sát pháp như huyễn,

Nơi tướng chẳng khởi vọng.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát khéo quán danh thân, cú thân, hình thân. Vì Đại Bồ Tát khéo quán danh, cú, hình, nên thuyết tướng danh, cú, hình, theo đó vào nghĩa cú thân, hình thân, chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tự giác như thế rồi, lại giác cho tất cả chúng sanh. Đại Huệ! Nói "DANH THÂN", là y sự lập danh, gọi là danh thân; nói "CÚ THÂN" là trong cú có nghĩa thân, để quyết định nghĩa cứu cánh của tự tánh, gọi là cú thân. Nói "HÌNH THÂN" là hiển thị nghĩa của danh cú, gọi là hình thân. Lại, nói HÌNH THÂN, còn có nghĩa là dài ngắn cao thấp; nói CÚ THÂN, còn có nghĩa đường đi dấu vết, như đường đi dấu vết của voi, ngựa, người và thú v.v... Đại Huệ! Nói danh và hình, là dùng danh để hiển bày bốn ấm Vô Sắc (thọ, tưởng, hành, thức) nên nói danh, vì hiện tự tướng nên nói hình, gọi chung là danh cú thân hình. Đối với ngằn mé của tướng danh cú thân hình, cần nên tu học.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Danh thân với cú thân,

hình thân sai biệt,

Phàm phu vọng chấp trước,

Như voi mắc đầm lầy.

- Lại nữa, Đại Huệ! Người trí đời vị lai thông đạt nghĩa ta thuyết, dùng nghĩa lìa kiến chấp tướng nhất, dị, đồng, chẳng đồng v.v... hỏi người vô trí, thì họ đáp rằng : "Sự hỏi này chẳng đúng. Nói các sắc tướng thường hay vô thường, khác hay chẳng khác, ấy là chư hạnh của Niết Bàn, lập tướng sở tướng, y sở y, kiến sở kiến, tạo sở tạo, trần và vi trần, tu và kẻ tu v.v... là tướng lần lượt so sánh". Thật ra, những câu của người trí hỏi kể trên, là vô ký và chỉ hý luận của Phật thuyết, có nghĩa thâm sâu, người si mê như họ chẳng thể biết, vì họ không đủ trí huệ nghe pháp vậy. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, vì khiến họ lìa sự kinh sợ, nên nói pháp Vô Ký và Chỉ Ký, cũng vì phá nhị kiến luận của ngoại đạo, chứ chẳng phải không thuyết.

- Đại Huệ! Cái thuyết của ngoại đạo, nói mạng tức là thân, những lời nói như thế mới là Vô Ký luận. Đại Huệ! Các ngoại đạo ngu si, nơi nhân lập Vô Ký Luận, chứ chẳng phải sở thuyết của Ta. Đại Huệ! Sở thuyết của Ta lìa năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng sanh vọng tưởng, chỉ để phá những kiến chấp của họ. Đại Huệ! Vì họ chấp trước năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng biết tự tâm hiện lượng, nên phá sự chấp trước của họ. Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đảng Chánh Giác, dùng bốn thứ ký luận vì chúng sanh thuyết pháp. Đại Huệ! Ta thường thuyết Chỉ Ký Luận, là vì người căn chưa thuần thục mà thuyết, chẳng phải vì người căn đã thuần thục thuyết.

- Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp lìa nhân duyên sở tác, nghĩa là Vô Sanh, vì chẳng có kẻ tác, nên tất cả pháp Vô Sanh. Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp lìa tự tánh? Vì lúc tự khởi giác quán, thấy tướng của tự tánh cộng tánh đều bất khả đắc, nên nói tất cả pháp Vô Sanh. Tại sao tất cả pháp chẳng thể đem lại, chẳng thể đem đi? Vì tự tướng cộng tướng bất khả đắc, nên muốn đem lại không có gì để đem lại, muốn đem đi không có gì để đem đi, nên nói tất cả pháp lìa đem lại đem đi. Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp chẳng diệt? Vì chẳng có tánh tướng của tự tánh, thì tất cả pháp bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng diệt. Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp vô thường? Vì tướng sanh khởi chẳng có tánh thường, nên nói tất cả pháp vô thường. Tại sao nói tất cả pháp thường? Vì tánh vô sanh chẳng có tướng sanh khởi, nên vô thường là thường, nên nói tất cả pháp thường.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Ký luận có bốn thứ (1):

Nhất hướng, phản cật vấn.

Phân biệt và chỉ luận,

Để đối trị ngoại đạo.

Thầy Số Luận (2)

Thắng Luận Hiển thị như thế này :

Pháp hữuphi hữu,

Tất cả đều vô ký.

Nếu chánh giác phân biệt,

Tự tánh bất khả đắc.

Vì lìa nơi ngôn thuyết,

Nên nói lìa tự tánh.

(1) KÝ LUẬN CÓ BỐN THỨ: Phật Thích Caphá chấp của ngoại đạo, có bốn cách đáp sự vấn nạn họ :

1.- Nhất Hướng : Khẳng định đáp.
2.- Phản Cật Vấn : Hỏi ngược lại.

3.- Phân biệt : Bất định đáp (đáp cả hai mặt).

4.- Chỉ Luận : Tức là lương cửu, im lặng đáp.

(2) SỐ LUẬN : Do môn đồ của Ngoại Đạo Tóc Vàng kiến lập, nói SỐ là số lượng để đo lường trí huệ, từ số mà sanh khởi Luận, luận cũng hay sanh ra số, nên gọi là Số Luận. Người tạo ra Số Luận và người học Số Luận gọi là Số Luận Sư.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết Tứ quả, Tứ hướng của thừa Thanh Văn về tướng thông nhau và sai biệt. Nếu Đại Bồ Tát khéo biết tướng thông và sai biệt của Tứ quả, Tứ hướng, thì có nhiều phương tiệnchúng sanh thuyết pháp, khiến chúng sanh thông đạt cứu cánh, như hai thứ tướng vô ngã và trừ sạch hai thứ phiền nãosở tri chướng, trải qua tướng chư Địa, đến cảnh giới cứu cánh bất tư nghì của Như Lai. Giống như hạt châu Ma Ni tùy sắc, khéo dùng tất cả pháp cảnh giới vô tận thân tài để nhiếp thọ, lợi ích tất cả chúng sanh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, nay Ta vì ngươi thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Lành thay Thế Tôn! Con xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Có ba thứ Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn quả sai biệt. Thế nào là ba? Nghĩa là hạ, trung, thượng. Hạ đó, bảy đời sanh mới vào Niết Bàn; Trung đó, ba hoặc năm đời mới vào Niết Bàn; Thượng đó, ngay đời ấy liền vào Niết Bàn. Ba hạng này còn tam kết hạ, trung, thượng, ấy là : Thân kiến, nghi kiếngiới thủ kiến, đó là tam kế sai biệt, dần dần tiến lên thì đắc quả A La Hán.

THÂN KIếN có hai thứ: Là Câu Sanh (mới sanh đã sẵn có) và vọng tưởng, như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, là nương theo duyên khởi tự tánh thì các thứ vọng tưởng tự tánh chấp trước sanh khởi. Vì tướng vọng tưởng chẳng thật, phi hữu phi vô, cũng chẳng phải hữu và vô mà phàm phu vọng tưởng chấp trước mỗi mỗi tự tánh vọng tưởng, như con nai đang khát tưởng dương diệm là nước, đó là thân kiến vọng tưởng của Tu Đà Hoàn. Bậc này tu theo nhơn (người) vô ngã, nhiếp thọ pháp vô tánh, dứt trừ vô tri chấp trước lâu đời.

- Đại Huệ! Câu sanh là thân kiến của Tu Đà Hoàn, chấp có tự thân tha thân v.v... Vì có tướng bốn ấm Vô Sắc, có năng tạo và sở tạo lần lượt làm nhơn tướng mà sanh ra sắc. Vì đại chủng và sắc chẳng phải một, nên Tu Đà Hoàn quán pháp hữu và vô chẳng hiện thì thân kiến liền đoạn. Thân kiến đoạn thì tham dục chẳng sanh, ấy gọi là tướng thân kiến hết.

- Đại Huệ! TƯớNG NGHI là tướng thấy được các pháp thiện (tức là đắc nhơn vô ngã thì lý nghi dứt) và hai thứ vọng tưởng thân kiến ở trên đã dứt, thì pháp nghi chẳng sanh. Không ở nơi khác khởi kiến chấp nghi bậc Sư là tịnh hay là bất tịnh thì nghi Sư (Thầy) dứt. Đến đây, nghi lý, nghi pháp, nghi Sư đều hết, ấy gọi là tướng Nghi của Tu Đà Hoàn đoạn dứt.

- Đại Huệ! Thế nào là GIớI THỦ KIếN? Tu Đà Hoàn chẳng thủ giới, vì thấy rõ tướng khổ nơi vị lai thọ sanh nên chẳng thủ. Đại Huệ! Nói THỦ, là sự quyết định thực tập khổ hạnh tinh tấn của phàm phu, cầu sanh cảnh giới thú vui của cõi Trời. Bậc họ chẳng thủ, là hồi hướng chỗ tối thắng tự giác, vốn lìa vọng tưởng, tu pháp Vô Lậu, hành tướng phương tiện, dù chẳng thủ, nhưng cũng thọ trì giới chi (Giới phần Vô Lậu), ấy gọi là đoạn dứt tướng giới thủ của Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn đoạn dứt tam kết, tham si chẳng sanh, nếu Tu Đà Hoàn nghĩ như thế, nói "Ta chẳng thành tựu các kết này", ắt có hai lỗi: Đọa thân kiến và các kết chẳng dứt.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Phật nói nhiều tham dục, vậy họ đoạn dứt tham dục gì?

Phật bảo Đại Huệ :

- Họ đoạn dứt những trói buộc như yêu thích người nữ, tham trước đủ thứ phương tiện, tạo thân khẩu ác nghiệp, thọ sự vui trước mắt mà gieo khổ đời vị lai v.v... chẳng sanh tham dục kể trên. Tại sao? Vì họ đắc sự vui của Tam muội chánh thọ, nên họ đoạn dứt tham dục thế gian mà chẳng phải đoạn dứt sự ham Niết Bàn.

- Đại Huệ! Thế nào là tướng Tư Đà Hàm? Ấy là đốn chiếu soi sắc tướng vọng tưởng, chẳng sanh tướng thấy tướng sanh. Vì khéo thấy được tướng thiền hạnh, nền vãng lai thế gian này một lần, mong dứt sạch khổ để đắc Niết Bàn, nên gọi là Tư Đà Hàm.

- Đại Huệ! Thế nào là A Na Hàm? Nghĩa là đoạn dứt sự sanh kiến chấp lỗi lầm của kết tập (tập khí phiền não), chẳng sanh vọng tưởng sắc tướng nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, tánh phi tánh, gọi là A Na Hàm.

- Đại Huệ! Nói là A La Hán, là do sức sáng suốt giải thoát Tam muội của chư Thiền, dứt sạch tất cả khổ, phiền não của vọng tưởng tánh phi tánh, nên gọi là A La Hán.

Đại Huệ bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Phật thuyết ba hạng A La Hán, nói A La Hánh này là thuộc hạng nào? Thế Tôn! Vì đắc tịch tịnh của đạo Nhất thừa, nên Đại Bồ Tát phương tiện thị hiện A La Hán để giúp Phật giáo hóa.

Phật bảo Đại Huệ :

- Đắc tịch tịnhđạo Nhất thừa của Thanh Văn, chẳng phải thừa khác. Thừa khác là hành hạnh Bồ Tát, do phương tiện khéo léo của bốn nguyện, nên ở nơi chúng sanh thị hiện thọ sanh và giúp Phật giáo hóa, cũng vì trang nghiêm quyến thuộc của Phật vậy. Đại Huệ! Ở nơi vọng tưởng thuyết đủ thứ pháp, nói đắc quả đắc thiền, thiền giả nhập thiền, thảy đều xa lìa, thị hiện chứng đắc tự tâm hiện lượng, đắc tướng quả, gọi là đắc quả. Lại nữa, Đại Huệ! Muốn siêu việt thiền của vô lượng Vô Sắc Giới, nên lìa tướng tự tâm hiện lượng. Đại Huệ! Nói chánh thọ, thọ tưởng, siêu việt tự tâm hiện lượng là chẳng đúng. Tại sao? Vì còn có tâm lượng vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Chư thiền Tứ Vô Lượng,

Vô sắc Tam Ma Đề.

Tất cả thọ, tưởng diệt,

Tâm lượng vốn không có (1).

Sơ quảnhị quả,

Tam quả A Na Hàm.

Tứ quả A La Hán,

Đều dứt tâm mê hoặc.

Thiền giả duyên thiền định,

Đoạn chấp thấy Chơn Đế.

vọng tưởng vô lượng,

Giác ngộ liền giải thoát.

  1. BỐN CÂU TRƯỚC CỦA BÀI KỆ là chỉ các thứ thiền phàm phu, ngoại đạoTiểu thừa, đã được giải ở trên.
- Lại nữa, Đại Huệ! Có hai thứ giác, là quán sát giác và Tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước kiến lập giác. Đại Huệ! Nói QUÁN SÁT GIÁC là tướng tự tánh của giác tánh, nếu quán sát sự phân biệt, lìa tứ cú bất khả đắc, ấy gọi là quán sát giác. Đại Huệ! Nói TỨ CÚ là lìa nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường gọi là tứ cú. Đại Huệ! Lìa tứ cú này gọi là Nhất Thiết Pháp. Tứ cú quán sát Nhất Thiết Pháp này cần nên tu học.

- Đại Huệ! Thế nào là TƯớNG VọNG TƯởNG NHIếP THọ CHẤP TRƯớC KIếN LậP GIÁC? Là nói tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước, tướng vọng tưởng chẳng thật, như điạ, thủy, hỏa, phong; tứ đại chủngtướng tông, nhơn, thí dụ, giác được chỗ kiến lập chẳng thật mà chấp trước kiến lập, ấy gọi là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước kiến lập giác.

- Nếu Đại Bồ Tát thành tựu hai thứ giác tướng này, đến tướng cứu cánh của tướng Nhơn pháp Vô Ngã thì khéo biết phương tiện Vô Sở Hữu giác, quán sát Hành Địa, đắc Sơ Địa, vào trăm Tam muội đắc sai biệt Tam muội, thị hiện trăm Phật và trăm Bồ Tát, biết các việc trong trăm kiếp quá khứvị lai, ánh sáng tự tâm chiếu soi trăm quốc độ, biết tướng từng bậc của chư Địa Bồ Tát. Đại nguyện thù thắng, thần lực tự tại, đến Pháp Vân Địa quán đảnh, sẽ chứng đắc Như Lai Tự Đắc Địa, khéo dùng tâm Thập Vô Tận Cú(1) để thành tựu cho chúng sanh, đủ thứ biến hóa quang minh trang nghiêm, đắc Tự Giác Thánh Lạc Tam Muội Chánh Thọ.

(1) THẬP VÔ TẬN CÚ : Cũng là mười thứ bất nhị của Như Lai. Chư Phật có mười thứ quyét định bất nhị : 1.- Tất cả chư Phật khéo thuyết lời thọ ký bất nhị. 2.- Hay tùy thuận tâm niệm chúng sanh, khiến họ thỏa nguyện bất nhị. 3.- Khéo biết tam thế tất cả Phật và Phật sở giáo hóa tất cả chúng sanh thể tánh bình đẳng bất nhị. 4.- Hay biết thế pháppháp tánh của chư Phật chẳng sai biệt, quyết định bất nhị. 5.- Khéo biết tam thế chư Phật đồng một thiện căn bất nhị. 6.- Hay thấu rõ tất cả pháp, diễ thuyết nghĩa lý bất nhị. 7.- Đầy đủ trí huệ của tam thế chư Phật bất nhị. 8.- Biết tất cả sát na nơi tam thế bất nhị.

9.- Biết tam thế tất cả cõi Phật vào trong mộy cõi bất nhị. 10.- Biết lời nói của tất cả tam thế chư Phật tức là lời nói của một Phật bất nhị.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát nên khéo tạo sắc tứ đại chủng. Thế nào là Bồ Tát khéo tạo sắc tứ đại chủng? Đại Huệ! Đại Bồ Tát giác được chơn đế thì tứ đại chủng chẳng sanh, ở nơi tứ đại chẳng sanh mà quán sát như thế, quán sát rồi giác được ngằn mé danh tướng của vọng tưởng, ngằn mé của tự tâm hiện và ngoài tánh phi tánh, gọi là tâm hiện vọng tưởng ngằn mé. Quán tam giới kia, tánh lìa tạo sắc của tứ đại chủng, thông đạt tứ cú, lìa ngã, ngã sở, tự tướng như thật tướng và lìa trụ phần đoạn sanh tử, thành tựu tự tướng vô sanh.

- Đại Huệ! Tứ đại chủng kia làm sao sanh khởi tạo sắc? Là nói vọng tưởng thấm nhuần đại chủng, trước sanh nội, ngoại thủy giới, rồi cái năng sanh của vọng tưởng đại chủng, sanh nội, ngoại hỏa giới. Vọng tưởng đại chủng phiêu động, sanh nội, ngoại phong giới, vọng tưởng đại chủng ngăn cách, sanh nội, ngoại địa giới. Do chấp sắc và hư không chấp trước lý tà thì có ngũ uẩn tập hợp, sự tạo sắc của tứ đại chủng do đó sanh khởi.

- Đại Huệ! Nói THỨC ẤM là do ham thích đủ thứ sự thích cảnh giới của lục trần dính mắc chẳng bỏ, nên phải tương tục thọ sanh nơi các loài khác. Đại Huệ! Địa, thủy, hỏa, phong tứ đại chủngsở tạo sắc pháp v.v... là do thức ấm duyên theo nghiệp mà sanh ra tứ đại, chẳng phải tứ đại tự làm duyên mà sanh ra thức ấm. Tại sao? Vì hình tưởng tự tánh, chỗ sở tác chỉ là phương tiện vô tánh, nên đại chủng chẳng sanh. Đại Huệ! Hình tướng tự tánh là do chỗ sở tác phương tiện hòa hợp mà sanh, chẳng phải vô hình. Cho nên tướng tứ đại tạo tác là vọng tưởng của ngoại đạo, chẳng phải thuyết của Ta.

- Lại nữa, Đại Huệ! Nay sẽ thuyết tướng tự tánh của các ấm. Thế nào là tướng tự tánh của các ấm? Nói NGŨ ẤM là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm phi sắc là thọ, tưởng, hành, thức. Đại Huệ! Nói SẮC ẤM, là tứ đại và tạo sắc mỗi mỗi có tướng riêng khác biệt. Đại Huệ! Bốn ấm vô sắc chẳng phải Vô Sắc mà có bốn số (thọ, tưởng, hành, thức) như hư không. Ví như hư không siêu việt tướng số mà lìa nơi số, chẳng có số lượng mà vọng tưởng nói là một hư không. Đại Huệ! Như thế, bốn ấm Vô Sắc cũng siêu việt tướng số mà lìa nơi số, lìa tánh phi tánh, lìa tứ cú. Nói TƯớNG Số là ngôn thuyết của phàm phu, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

- Đại Huệ! Bậc Thánh như huyễn, mỗi mỗi sắc tướng lìa sự dựng lập, khác hay chẳng khác, cũng như thân bóng mộng của sĩ phu, lìa khác và chẳng khác. Đại Huệ! Nói Thánh Trí đồng như tướng vọng tưởng của ngũ ấm hiện, gọi là tướng tự tánh của các ấm, ngươi nên diệt trừ. Diệt rồi thuyết pháp tịch tịnh, dứt tất cả kiến chấp của các ngoại đạo nơi tất cả cõi Phật.

- Đại Huệ! Lúc nói tịch tịnh, là thấy pháp Vô Ngã tịnh, và vào Bất Động Địa ( Đệ Bát Địa ). Vào Bất Động Địa rồi, đắc vô lượng Tam muội tự tạiđắc ý sanh thân, đắc như huyễn Tam muội, thông đạt sự cứu cánh sáng tỏ tự tại, cứu giúp lợi ích tất cả chúng sanh, giống như đại địa nuôi dưỡng chúng sanh, Đại Bồ Tát phổ độ chúng sanh cũng như thế.

- Lại nữa, Đại Huệ! Các ngoại đạo có bốn thứ Niết Bàn. Thế nào là bốn? 1.- Tánh của tự tánh phi tánh Niết Bàn. 2.- Mỗi mỗi tướng của tự tánh phi tánh Niết Bàn. 3. Tướng giác của tự tánh phi tánh Niết Bàn. 4.- Tương tục lưu chú của tự tướng cộng tướng nơi ngũ ấm đoạn dứt Niết Bàn. Ấy gọi là bốn thứ Niết Bàn của các ngoại đạo, chẳng phải pháp sở thuyết của Ta. Đại Huệ! Pháp của Ta thuyết là các thức của vọng tưởng diệt, gọi là Niết Bàn.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn há chẳng kiến lập thức thứ tám ư?

Phật đáp :

- Kiến lập.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Nếu kiến lập thì tại sao chỉ lìa ý thức (Thức thứ sáu) mà chẳng lìa thức thứ bảy?

Phật bảo Đại Huệ :

- Vì lìa sự phan duyên của thức thứ sáu thì thức thứ bảy chẳng sanh. Ý thứcphân biệt cảnh giới phần đoạn của Tiền ngũ thức, đang lúc phân biệt, liền sanh khởi chấp trước, thì những tập khí nuôi dưỡng nơi tạng thức, khởi hiện hành huân tập chủng tử, do thức thứ bảy truyền vào ý thức, tức là cùng trong thức thứ tám vậy. Chấp trước ngã và ngã sở thì nhân duyên tư duy sanh khởi, thân tướng chẳng hoại, tạng thức do ý thức phan duyên thì cảnh giới tự tâm hiện, tâm chấp trước liền sanh. Các thức lần lượt làm nhân với nhau, cũng như làn sóng biển, do ngọn gió của cảnh giới tự tâm hiện thổi, làn sóng các thức hoặc sanh hoặc diệt cũng như thế. Cho nên, ý thức diệt thì thức thứ bảy theo đó cũng diệt.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết rằng :

Ta chẳng trụ Niết Bàn.

Tướng năng tác, sở tác.

Tánh Niết Bàn ta thuyết,

Lìa vọng tưởng nhĩ diệm.

Do thức phan duyên nhau,

Thành đủ thứ thân hình.

Gốc nhân chính là tâm,

Nơi nương tựa của thức.

Như dòng nước đã cạn,

Thì làn sóng chẳng khởi.

Vậy ý thức diệt rồi,

Thì các thức chẳng sanh.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :

- Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn cộng sanh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyênnội duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.

- Thế nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp Nội Duyên.

- Đại Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân, Đối đãi nhân.

1. Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu Nhân.

2. Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương Tục Nhân.

3. Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi là Tướng Nhân.

4. Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.

5. Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.

6. Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.

- Đại Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả đều Vô sanh,

Cũng không nhân duyên diệt.

Ở nơi tướng sanh diệt,

Mà khởi nhân duyên tưởng.

Pháp diệt rồi lại sanh,

Do nhân duyên tương tục.

Vì đoạn dứt si mê,

Của tất cả chúng sanh.

Nên thuyết pháp duyên khởi,

Các pháp thật Vô Sanh.

Do tập khí mê hoặc,

Từ đó hiện tam giới.

Duyên thật vốn Vô Sanh,

Lại cũng chẳng có diệt.

Tất cả pháp hữu vi,

Như hoa đốm trên không.

Nếu lìa bỏ kiến chấp,

Năng nhiếp và sở nhiếp.

Chẳng có Vô nhân sanh,

Và đã sanh, sẽ sanh.

Sự sanh vốn chẳng có,

Thảy chỉ là ngôn thuyết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11623)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11932)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11335)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12059)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12550)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10757)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17968)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11717)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10166)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12345)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15330)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11233)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14319)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12089)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15351)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11994)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12391)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11156)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12073)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10599)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12550)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13155)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14811)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12668)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16540)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19633)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13103)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12652)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12249)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11834)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10894)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13492)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11938)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11836)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11622)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12755)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14498)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12589)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15655)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13603)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12887)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9856)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18007)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11153)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9063)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12170)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13035)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10292)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12178)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15296)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16592)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12209)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11461)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14261)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19688)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14137)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24596)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10677)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant