Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Thế nào Là Ngữ, Thế Nào Là Nghĩa

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9220)
7. Thế nào Là Ngữ, Thế Nào Là Nghĩa

KINH LĂNG GIÀ
LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

QUYỂN THỨ BA

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, Đại Bồ Tát nên thấu ngữ nghĩa. Thế nào là Bồ Tát khéo thấu ngữ nghĩa? Thế nào là ngữ? 

Thế nào là nghĩa?

Phật bảo Đại Huệ

- Hãy chú ý nghe, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Thế nào là NGỮ? Là nói nương theo cổ họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, hòa hợp vọng tưởng, sanh ra văn tự ngôn thuyết, do đó tập khí chấp trước sanh khởi, ấy gọi là Ngữ.

- Thế nào là NGHĨA? Là nói lìa tất cả tướng vọng tưởngngôn thuyếthiển bày tánh nghĩa, ấy gọi Nghĩa. Đại Huệ! Đại Bồ Tát ở nơi tĩnh lặng, dùng huệ Văn, Tư, Tu, quán theo nghĩa này thì được duyên tự giác liễu, hướng vào thành Niết Bàn, cho đến thân tập khí chuyển biến rồi thì chứng cảnh giới tự giác, khéo quán tướng Nghĩa Thắng Tiến từ Sơ Địa đến Thập Địa, ấy gọi là Đại Bồ Tát khéo thông tướng Nghĩa.

- Lại nữa, nói ĐẠI BỔ TÁT KHÉO THÔNG NGỮ NGHĨA, là quán ngữ và nghĩa chẳng phải khác, chẳng phải không khác; quán nghĩa và ngữ cũng như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng do ngữ mà hiểu nghĩa, thật thì do ngữ vào nghĩa, cũng như ngọn đèn chiếu soi mà hiện sắc tướng vậy.

- Lại nữa, Đại Huệ! Tự tánh Niết Bàn bất sanh bất diệt, Tam Thừa, Nhất Thừa, tâm và tự tánh vốn Bình đẳng. Nếu duyên theo nghĩa ngôn thuyết chấp trước, thì đọa kiến chấp phủ nhận và kiến lập, cho có kiến lập khác biệt và vọng tưởng khác biệt, hiện mỗi mỗi vọng tưởng như huyễn. Ví như mỗi mỗi tướng huyễn, chúng sanh ngu si cho là vọng tưởng có khác biệt, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Theo vọng tưởng ngôn thuyết,

Kiến lập nơi các pháp.

Do lỗi kiến lập ấy,

Chết rồi đọa địa ngục.

Trong ấm chẳng có ngã,

Ấm tức chẳng phải ngã.

Cũng chẳng phải Vô Ngã,

Chẳng như vọng tưởng kia.

Chấp tất cả có tánh,

vọng tưởng phàm phu.

Nếu như kiến chấp họ,

Tất cả thành Chơn Đế.

Tất cả pháp Vô Tánh,

Dơ sạch thảy đều lìa.

Kiến chấp họ chẳng thật,

Cũng chẳng phải đoạn diệt.

Lại nữa, Đại Huệ! Nay ta sẽ thuyết tướng Trí Thức, nếu ngươi và các Bồ Tát khéo phân biệt được tướng Trí Thức, tức là thông đạt tướng Trí Thức, sẽ chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Huệ! Có ba thứ trí là : Thế gian trí, xuất thế gian tríxuất thế gian thượng thượng trí. Thế nào là THẾ GIAN TRÍ? Là nói tất cả phàm phu ngoại đạo chấp trước hữu và vô. Thế nào là XUẤT THẾ GIAN TRÍ? Là nói tất cả Thanh Văn, Duyên Giác do chấp trước hy vọng chứng quả Niết Bàn, đọa tự tướng sở chứng cho là cộng tướng. Thế nào là XUẤT THẾ GIAN THỰƠNG TRÍ? Ta nói chư Phật Bồ Tát quán pháp Vô Sanh, thấy bất sanh bất diệt, lìa pháp hữu và vô, duyên Vô Sư Trí, tự chứng đắc nhơn pháp Vô Ngã của địa vị Như Lai.

Đại Huệ! Sanh diệt là Thức, bất sanh bất diệt là Trí. Lại nữa đọa tướng vô tướng và đọa mỗi mỗi nhân tướng hữu và vô là Thức, siêu việt tướng hữu vô là Trí. Lại nữa, nuôi dưỡng tướng là Thức, chẳng nuôi dưỡng tướng là Trí. Lại nữa, có ba thứ trí : Là biết sanh diệt, biết tự cộng tướng, biết bất sanh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là Trí, mỗi mỗi cảnh giới tướng ngại là Thức. Lại nữa, chấp ba sự hòa hợp (1) sanh tướng phương tiện là Thức, tướng tự tánh chẳng nhờ sự phương tiện là Trí. Lại nữa, đắc tướng là Thức, chẳng đắc tướng là Trí. Vì cảnh giới Tự Giác Thánh Trí chẳng xuất chẳng nhập, như bóng trăng trong nước, chẳng thể đắc vậy.

(1) BA SỰ HÒA HỢP : 1.- Căn bản duyên của thức thứ tám. 2.- Tác ý, tức tự thể của thức thứ sáu. 3.- Chủng tử, tức do thức thứ sáu huân tập mà thành.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tích tụ nghiệp là Thức,

Chẳng tích tụ là Trí.

Quán sát tất cả pháp,

Thông đạt nghĩa Vô Sanh.

Khi đắc sức tự tại,

Thì gọi là trí huệ.

Tâm lìa cảnh giới trói,

Trí giác tưởng liền khởi.

Cho đến tướng Thắng Diệu,

Đại trí huệ tự sanh.

Xa lìa tư duy tưởng,

Tâm, ý, và ý thức.

Bồ Tát Vô phân biệt 

Thanh Văn chẳng thể đến.

Tịch tịnh thắng tiến nhẫn (1)

Trí Như Lai trong sạch.

Khéo sanh Thắng Nghĩa Đế,

Sở hành thảy xa lìa.

Ta thuyết ba thứ trí,

Mở mang tánh chơn thật.

Nhị thừachứng đắc,

Chấp trước nơi tự tánh.

Nơi tưởng tư duy kia,

Nhiếp thọ tất cả tướng.

Thành Thanh Văn, Duyên Giác.

Bậc trí lìa chư hữu,

Siêu việt những tâm lượng,

thanh tịnh Như Lai.

(1) TịCH TịNH THẮNG TIẾN NHẪN : Trong Kinh Nhơn Vương nói năm thứ nhẫn là : Điều phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô Sanh nhẫnTịch diệt nhẫn.

- Lại nữa, Đại Huệ! Ngoại đạo có chín thứ Chuyển Biến Luận (1) sanh kiến chấp chuyển biến của ngoại đạo, ấy là : Hình Xứ chuyển biến, Tướng chuyển biến, Nhân chuyển biến, Thành chuyển biến, Kiến chuyển biến, Tánh chuyển biến, Duyên Phân Minh chuyển biến, Sở Tác Phân Minh chuyển biến, Sự chuyển biến, gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến.

(1) CHÍN THỨ CHUYỂN BIẾN LUẬN CỦA NGOẠI ĐẠO :

1.- HÌNH XỨ chuyển biến : Là nói chúng sanh luân hồi trong lục đạo, mỗi mỗi hình tướng và vứ sở chuyển biến chẳng đồng.
2.- TƯỚNG chuyển biến : Là tướng của tứ đại ngũ ấm sanh, trụ, diệt chuyển biến chẳng đồng.

3.- NHÂN chuyển biến : Do chủng tử làm nhân, nhân diệt thì quả sanh, chuyển biến chẳng đồng.

4.- THÀNH chuyển biến : Là nói do nhân duyên thành tựu các pháp, có thành có hoại, chuyển biến chẳng đồng.

5.- KIẾN chuyển biến : Nói các pháp tùy thời gian biến đổi, trước thấy thì đúng, sau thấy thì sai, chuyển biến chẳng đồng.

6.- TÁNH chuyển biến : Nói các pháp chuyển lạ thành quen, chuyển đắng thành ngọt, chuyển biến chẳng đồng.

7.- DUYÊN PHÂN MINH chuyển biến : Nói mười hai nhân duyên sanh diệt chẳng ngừng, phân minh chuyển biến chẳng đồng.

8.- SỞ TÁC PHÂN MINH chuyển biến : Do duyên sở tác thành quả, có sanh rồi lại diệt, chuyển biến chẳng đồng.

9.- SỰ chuyển biến : Nói căn, thân, khí giới (vũ trụ vạn vật) các pháp hữu vi cuối cùng đều phải biến hoại.

Chín thứ chuyển biến này hoặc từ vô thành hữu, hoặc từ hữu thành vô, do đó vọng sanh phân biệt lập ra Chuyển Biến Luận.

- Đại Huệ! Tất cả ngoại đạochấp hữu và vô, sanh khởi Chuyển Biến Luận. Thế nào là HÌNH XỨ chuyển biến? Là thấy nhiều hình xứ khác nhau, ví như vàng ròng chuyển biến thành các thứ đồ dùng thì có mỗi mỗi hình xứ hiển hiện, mà chẳng phải có tánh vàng chuyển biến. Tất cả chuyẻn biến cũng như thế. Hoặc có ngoại đạo tự sanh vọng tưởng như thế; từ vọng tưởng HÌNH XỨ chuyển biến cho đến SỰ chuyển biến, tất cả tánh của chín thứ chuyển biến như thế, chẳng phải như vọng tưởng, cũng chẳng phải khác với vọng tưởng. Nên biết vọng tưởng chuyển biến của ngoại đạo, cũng như tô lạc, rượu, trái cây, v.v.. từ nhân ban sơ chuyển biến thành quả chín mùi, hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, ngoài tánh phi tánh, thật ra tự tâm chẳng có chuyển biến. Đại Huệ! Chúng sanh ngu si như thế, tự sanh vọng tưởng tu tập, thấy pháp hữu vô hoặc sanh hoặc diệt, như thấy sắc tướng sanh nơi mộng huyễn vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muôn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Lúc hình xứ chuyển biến,

tứ đại chuyển biến.

Trung ấm (thân) chẳng tứ đại,

Cũng không ngoài hình xứ.

Chuyển biến thuộc vọng tưởng,

Chẳng phải bậc Minh trí.

Vậy duyên khởi thế gian,

Như thành Càn Thát Bà.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết nghĩa tương tục và giải thoát của tất cả pháp. Nếu khéo phân biệt tướng của tất cả pháp tương tục hay chẳng tương tục, sẽ khiến con và các Bồ Tát khéo hiểu tất cả phương tiện khéo léo, chẳng đọa nghĩa sở thuyết của ngoại đạo chấp trước tương tục. Đối với tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp, lìa vọng tưởng ngôn thuyết văn tự dạo qua tất cả cõi Phật, trước vô lượng đại chúng hiện sức tự tại thần thông, Tổng trì Pháp ấn, đủ thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi giác huệ, khéo dùng Thập Vô Tận Cú, vô lượng phương tiện hạnh, cũng như nhựt nguyệt, châu Ma Nitứ đại, nơi tất cả Địa, lìa tự tướng vọng tưởng mà hiện. Thấy tất cả pháp như mộng huyễn, vào địa vị Phật nơi tất cả cõi chúng sanh, tùy cơ thích ứngthuyết pháp để dẫn dắt họ, khiến được an trụ tự tâm, lìa pháp hữu vô và vọng tưởng sanh diệt, tất cả các pháp như mộng huyễn v.v.. Chuyển tướng Sở Y thành thân Tối Thắng, khác với nghĩa ngôn thuyết của ngoại đạo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Tà sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả các pháp vô lượng, như nghĩa sở thuyết chấp trước tương tục của ngoại đạo, ấy là : Tướng chấp trước tương tục, Duyên chấp trước tương tục, Tánh Phi Tánh chấp trước tương tục, vọng tưởng Sanh Bất Sanh chấp trước tương tục, vọng tưởng Diệt Bất Diệt chấp trước tương tục, vọng tưởng Thừa Phi Thừa chấp trước tương tục, vọng tưởng Hữu Vi, Vô Vi chấp trước tương tục, vọng tưởng Địa Địa Tự Tướng chấp trước tương tục, vọng tưởng Tự Vô Gián chấp trước tương tục, vọng tưởng Y Pháp Hữu Vô của ngoại đạo chấp trước tương tục, vọng tưởng Tam Thừa, Nhất Thừa Vô Gián chấp trước tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đây là những chúng sanh ngu si tự sanh vọng tưởng tương tục. Phàm phu vọng tưởng, đem những tương tục này, như con tằm nhả tơ làm kén, dùng tơ vọng tưởng tự trói trói người, tương tục chấp trước tướng có và không có.

- Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó thật chẳng có tướng tương tục và bất tương tục. Nếu quán tất cả pháp tịch tịnh thì vọng tưởng chẳng sanh, nên Đại Bồ Tát phải quán tất cả pháp tịch tịnh.

- Lại nữa, Đại Huệ! Giác được ngoài tánh phi tánh thì tướng tự tâm hiện lượng chẳng có, thuận theo sự quán sát tự tâm hiện lượng chẳng có thì tất cả tánh hữu và vô đều vô tướng. Vì tương tục tịch tịnh, nên nơi tất cả pháp chẳng có tướng Tương tục và bất Tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó chẳng có trói hay mở, cũng chẳng đọa tri kiến ỏỏ không thật không như thật ỏỏ cho là có trói có mở. Tại sao? Vì tất cả pháp hữu và vô đều bất khả đắc. Nếu thấy có tất cả pháp để Không là chưa thể quên nơi pháp; thấy có tất cả chúng sanh để độ thì chưa thể quên nơi chúng sanh, dù nói mở trói, nhưng chưa lìa trói, chẳng th gọi là cảnh giới chơn như thật tế.

- Nếu giác ngộ như thật tế, đối với tất cả pháp chẳng thấy có tất cả pháp để Không tức là nơi pháp mà lìa pháp; độ tất cả chúng sanh chẳng thấy có tất cả chúng sanh để độ, tức là nơi chúng sanh mà lìa chúng sanh, vì tất cả pháp và tất cả chúng sanh đều bất khả đắc vậy.

- Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu có ba thứ tương tục (là nguồn gốc của mười một thứ tương tục kể trên) ấy là : Tham, sân, si, nghiệp ái và tham ái của kiếp sau. Từ tham, sân, si sanh ra nghiệp ái và tham ái kiếp sau, do ba thứ tương tục này, khiến chúng sanh tương tục luân hồi trong lục đạo. Đại Huệ! Nếu tương tục đoạn dứt thì chẳng có tương tục và bất tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ! Chấp trước ba duyên hòa hợp (1) làm phương tiện thì sanh thức ấm tương tục chẳng ngừng, vì chấp trước phương tiện nên có tương tục. Nếu ba duyên hòa hợpthức ấm đoạn dứt thì thấy được ba giải thoát, tất cả tương tục đều chẳng sanh.

(1) BA DUYÊN HÒA HỢP : Tức là căn, cảnh, thức. Căn là lục căn, cảnh là lục trần. Thức là lục thức. Tất cả pháp đều do ba thứ nhân duyên này hòa hợp sanh khởi.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Vọng tưởng chẳng chơn thật,

Nói là tướng tương tục.

Nếu liễu tri chơn thật,

Thì lưới tương tục dứt.

chúng sanh vô tri,

Tùy ngôn thuyết nhiếp thọ.

Ví như con tằm kia,

Nhả tơ để tự trói.

Vọng trói của phàm phu,

Tương tục cũng như thế.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Như Thế Tôn sở thuyết, vì chấp trước mỗi mỗi nghĩa, mỗi mỗi vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sanh. Thế thì mỗi mỗi vọng tưởng phân biệt, mỗi mỗi các pháp vốn chẳng thật tánh, chỉ là hư vọng phân biệt mà thôi. Thế Tôn! Nếu chỉ có vọng tưởng tự tánh chẳng phải có pháp tự tánh khác làm đối đãi mà khởi thì các pháp đều chẳng tự tánh. Há chẳng phải Thế Tôn nói "Tập khí phiền não với thanh tịnh Niết Bàn thảy đều vô tánh ư?". Nếu nhiễm tịnh đều hoại, há chẳng phải có cái lỗi các pháp đoạn diệt ư? Tại sao Thế Tôn nói tất cả pháp chỉtự tánh vọng tưởng, là phi tánh, chẳng có thật thể? Há chẳng phải thành kiến chấp đoạn diệt ư?

Phật bảo Đại Huệ :

- Đúng thế, đúng thế! Như ngươi sở thuyết, Đại Huệ! Như Thánh Trí có tánh của tự tánh là : Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn, như thế, tánh của tự tánh tự tri, chẳng như tánh chấp của phàm phu, cho vọng tưởng tự tánh là chơn thật. Cái vọng tưởng tự tánh này chẳng phải có tánh tướng của tự tánh vậy.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Gỉả sử bậc Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn tự tri, chẳng như Thiên nhãnNhục nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà tri. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể kiến tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu được lìa vọng tưởng này? Chỉ có cảnh giới giác tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được vọng thức, xa lìa vọng tưởng phân biệt. Thế Tôn! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Tại sao? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh, và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.

- Thế Tôn! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướngcảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới tự sở hành của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới tự tướngcảnh giới, do cảnh giới của phàm phutự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhấtVô Tướng, Bản thể của Vô TướngPháp Thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng tự tánh, cũng thấy có pháp thể nơi tự tánh, nơi tướng của tự tánh phân biệt pháp thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện tự tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là H"U, chẳng nói vô nhân mà gọi là VÔ, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì đọa kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh "chẳng đọa nơi hữu và vô" như thế này là chẳng đọa nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì đọa nơi hữu, hoặc thấy cho là vô nhân thì đọa nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Tại sao? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể vậy.

- Thế Tôn! Do vọng tưởng tự tánh phân biệt, chẳng thể thấy được tánh tướng của tự tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng? Làm sao như thậtbiết vọng tưởng? Thế Tôn! Tướng vọng tưởngtướng tự tánh có khác hay chẳng khác? Nếu nói tướng vọng tưởngtướng tự tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng như thật biết chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp? Nếu nói là chúng sanh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sanh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trướccảnh giới của bậc Thánh, đọa nơi hữu kiến? Sao chẳng nói pháp KHÔNG tịch tịnh phi tánh, mà lại nói sự Thánh Trí tự tánh?

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải ta chẳng thuyết pháp KHÔNG phi tánh, cũng chẳng phải đọa nơi hữu kiến, nói sự Thánh Trí tự tánh. Vì muốn khiến chúng sanh lìa sự kinh sợ, do chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tánh tướng của tự tánh và sự Thánh Trí tự tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp KHÔNG thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của tự tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp KHÔNG như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh phi tánh do sự tâm hiện đắc tâm giải thoát, đúng như pháp ấn thật tướng sở ấn, nơi tánh của tự tánh do tự giác quán sát, lìa tướng thấy hữu và vô.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chẳng nên lập "TẤT CẢ PHÁP BẤT SANH" làm tông. Tại Sao? Vì tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sanh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói "Lập tông phải hoại" là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng Vô sanh chẳng hoại, nên "Tất cả pháp chẳng th lập tông thì hoại". Đại Huệ! Hữu và vô chẳng sanh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô bất khả đắc. Đại Huệ! Gỉa sử tông kia chẳng sanh, đem "tất cả tánh chẳng sanh" mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sanh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận (logic) có rất nhiều lỗi (Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận ghi có ba mươi lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có sở tác, dó đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sanh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp khôngtự tánh thì chẳng nên lập tông.

- Đại Huệ! Nhưng Đại Bồ Tát thuyết tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ phải tùy cơ thuyết pháp, chớ khiến họ sanh tâm khủng bố, xa lìa pháp Đại thừa.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nà mà thuyết kệ rằng :

Vô thuyết vô tự tánh,

Vô sự vô tương tục.

Phàm phu vọng chấp thật,

Như xác chết có giác.

Tất cả pháp bất sanh,

Chẳng như tông ngoại đạo.

Các pháp vốn Vô Sanh,

Do nhân duyên thành tựu.

Tất cả pháp bất sanh,

Bậc trí chẳng phân biệt.

Việc do lập tông sanh,

Kẻ giác phải diệt trừ.

Ví như mắt bệnh nhặm,

Vọng thấy tướng hoa đốm.

Tánh chấp trước cũng thế,

Do phàm phu vọng tưởng.

Phân biệt hiện tam giới,

Sự Tự Tánh chẳng có,

Mà lập sự tự tánh,

tư duy khởi vọng,

Tùy sự lập ngôn giáo,

Vọng tưởng rất lăng tăng.

Phật tử hãy siêu thoát,

Xa lìa các vọng tưởng.

Phi nước tưởng là nước,

Do khát nước vọng sanh.

Phàm phu mê như thế,

Bậc Thánh chẳng thấy vậy.

Bậc Thánh thấy trong sạch,

Chánh định tam giải thoát.

Xa lìa nơi sanh diệt,

Dạo đi cõi Vô Sanh.

Tu hành vô sở tu,

Cũng chẳng tánh phi tánh.

Tánh phi tánh bình đẳng,

Do đó sanh Thánh quả.

Thế nào tánh phi tánh?

Thế nào pháp bình đẳng?

Tâm tri tâm bất tri,

Trong ngoài và động tịnh.

Nếu người được đoạn dứt,

Ắt thấy tâm bình đẳng.

Khi ấy, Đại Huệ lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, trí huệ quán sát Tiền Cảnh phan duyên các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, sở nhiếp thọ và năng nhiếp thọ phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể nhiếp thọ cái thuyết "Phân biệt bất sanh", ấy gọi là Trí. Vậy cái tên TRÍ này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào? Thế Tôn! Vì chẳng giác được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí ư?

- Thế Tôn! Nếu do chẳng giác được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng trí thì chẳng nên nói TRÍ, nên nói VÔ TRÍ, vì có sự "chẳng đắc" vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải trí. Thế Tôn! Do có nhĩ diệm (mẹ của trí) nên trí sanh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của nhĩ diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí, vậy là vô trí, cũng chẳng phải trí, vì sự "Có Trí" bất khả đắc vậy.

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ngươi nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà "SỰ" chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên trí ở nơi "nhĩ diệm" chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu ngoại đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Chẳng trụ sự phan duyên,

trí huệ quán sát,

Vô trí tức Chánh Trí,

Vọng cho là phi trí.

Nơi tánh tướng chẳng khác,

Nếu chấp theo quán sát,

Những chướng ngại xa gần,

Ấy gọi là tà trí.

Do lục căn chẳng đủ,

Nói trí huệ chẳng sanh.

Thật thì có nhĩ diệm,

Ấy cũng gọi tà trí.

- Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu ngu si chẳng khéo liễu tri, chấp tướng ngoài tánh tự tâm hiện, bị vọng tưởng tà ác hư ngụy từ vô thỉ xoay chuyển. Lúc xoay chuyển thì chẳng thể đạt đến Tự Tông Thông và Thuyết Thông, nên chấp cái thuyết phương tiện, mà chẳng khéo phân biệt tứ cú của Tự Tông và Tướng Thông trong sạch.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :

- Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn cộng sanh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyênnội duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.

- Thế nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp Nội Duyên.

- Đại Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân, Đối đãi nhân.

1. Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu Nhân.

2. Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương Tục Nhân.

3. Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi là Tướng Nhân.

4. Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.

5. Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.

6. Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.

- Đại Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả đều Vô sanh,

Cũng không nhân duyên diệt.

Ở nơi tướng sanh diệt,

Mà khởi nhân duyên tưởng.

Pháp diệt rồi lại sanh,

Do nhân duyên tương tục.

Vì đoạn dứt si mê,

Của tất cả chúng sanh.

Nên thuyết pháp duyên khởi,

Các pháp thật Vô Sanh.

Do tập khí mê hoặc,

Từ đó hiện tam giới.

Duyên thật vốn Vô Sanh,

Lại cũng chẳng có diệt.

Tất cả pháp hữu vi,

Như hoa đốm trên không.

Nếu lìa bỏ kiến chấp,

Năng nhiếp và sở nhiếp.

Chẳng có Vô nhân sanh,

Và đã sanh, sẽ sanh.

Sự sanh vốn chẳng có,

Thảy chỉ là ngôn thuyết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11348)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12066)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12351)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15342)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12097)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10617)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13174)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12687)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16579)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11953)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14517)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12176)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11482)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant