Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Thế nào Là Ngữ, Thế Nào Là Nghĩa

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9231)
7. Thế nào Là Ngữ, Thế Nào Là Nghĩa

KINH LĂNG GIÀ
LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

QUYỂN THỨ BA

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, Đại Bồ Tát nên thấu ngữ nghĩa. Thế nào là Bồ Tát khéo thấu ngữ nghĩa? Thế nào là ngữ? 

Thế nào là nghĩa?

Phật bảo Đại Huệ

- Hãy chú ý nghe, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Thế nào là NGỮ? Là nói nương theo cổ họng, môi, lưỡi, răng, nướu, cằm, hòa hợp vọng tưởng, sanh ra văn tự ngôn thuyết, do đó tập khí chấp trước sanh khởi, ấy gọi là Ngữ.

- Thế nào là NGHĨA? Là nói lìa tất cả tướng vọng tưởngngôn thuyếthiển bày tánh nghĩa, ấy gọi Nghĩa. Đại Huệ! Đại Bồ Tát ở nơi tĩnh lặng, dùng huệ Văn, Tư, Tu, quán theo nghĩa này thì được duyên tự giác liễu, hướng vào thành Niết Bàn, cho đến thân tập khí chuyển biến rồi thì chứng cảnh giới tự giác, khéo quán tướng Nghĩa Thắng Tiến từ Sơ Địa đến Thập Địa, ấy gọi là Đại Bồ Tát khéo thông tướng Nghĩa.

- Lại nữa, nói ĐẠI BỔ TÁT KHÉO THÔNG NGỮ NGHĨA, là quán ngữ và nghĩa chẳng phải khác, chẳng phải không khác; quán nghĩa và ngữ cũng như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng do ngữ mà hiểu nghĩa, thật thì do ngữ vào nghĩa, cũng như ngọn đèn chiếu soi mà hiện sắc tướng vậy.

- Lại nữa, Đại Huệ! Tự tánh Niết Bàn bất sanh bất diệt, Tam Thừa, Nhất Thừa, tâm và tự tánh vốn Bình đẳng. Nếu duyên theo nghĩa ngôn thuyết chấp trước, thì đọa kiến chấp phủ nhận và kiến lập, cho có kiến lập khác biệt và vọng tưởng khác biệt, hiện mỗi mỗi vọng tưởng như huyễn. Ví như mỗi mỗi tướng huyễn, chúng sanh ngu si cho là vọng tưởng có khác biệt, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Theo vọng tưởng ngôn thuyết,

Kiến lập nơi các pháp.

Do lỗi kiến lập ấy,

Chết rồi đọa địa ngục.

Trong ấm chẳng có ngã,

Ấm tức chẳng phải ngã.

Cũng chẳng phải Vô Ngã,

Chẳng như vọng tưởng kia.

Chấp tất cả có tánh,

vọng tưởng phàm phu.

Nếu như kiến chấp họ,

Tất cả thành Chơn Đế.

Tất cả pháp Vô Tánh,

Dơ sạch thảy đều lìa.

Kiến chấp họ chẳng thật,

Cũng chẳng phải đoạn diệt.

Lại nữa, Đại Huệ! Nay ta sẽ thuyết tướng Trí Thức, nếu ngươi và các Bồ Tát khéo phân biệt được tướng Trí Thức, tức là thông đạt tướng Trí Thức, sẽ chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đại Huệ! Có ba thứ trí là : Thế gian trí, xuất thế gian tríxuất thế gian thượng thượng trí. Thế nào là THẾ GIAN TRÍ? Là nói tất cả phàm phu ngoại đạo chấp trước hữu và vô. Thế nào là XUẤT THẾ GIAN TRÍ? Là nói tất cả Thanh Văn, Duyên Giác do chấp trước hy vọng chứng quả Niết Bàn, đọa tự tướng sở chứng cho là cộng tướng. Thế nào là XUẤT THẾ GIAN THỰƠNG TRÍ? Ta nói chư Phật Bồ Tát quán pháp Vô Sanh, thấy bất sanh bất diệt, lìa pháp hữu và vô, duyên Vô Sư Trí, tự chứng đắc nhơn pháp Vô Ngã của địa vị Như Lai.

Đại Huệ! Sanh diệt là Thức, bất sanh bất diệt là Trí. Lại nữa đọa tướng vô tướng và đọa mỗi mỗi nhân tướng hữu và vô là Thức, siêu việt tướng hữu vô là Trí. Lại nữa, nuôi dưỡng tướng là Thức, chẳng nuôi dưỡng tướng là Trí. Lại nữa, có ba thứ trí : Là biết sanh diệt, biết tự cộng tướng, biết bất sanh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là Trí, mỗi mỗi cảnh giới tướng ngại là Thức. Lại nữa, chấp ba sự hòa hợp (1) sanh tướng phương tiện là Thức, tướng tự tánh chẳng nhờ sự phương tiện là Trí. Lại nữa, đắc tướng là Thức, chẳng đắc tướng là Trí. Vì cảnh giới Tự Giác Thánh Trí chẳng xuất chẳng nhập, như bóng trăng trong nước, chẳng thể đắc vậy.

(1) BA SỰ HÒA HỢP : 1.- Căn bản duyên của thức thứ tám. 2.- Tác ý, tức tự thể của thức thứ sáu. 3.- Chủng tử, tức do thức thứ sáu huân tập mà thành.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tích tụ nghiệp là Thức,

Chẳng tích tụ là Trí.

Quán sát tất cả pháp,

Thông đạt nghĩa Vô Sanh.

Khi đắc sức tự tại,

Thì gọi là trí huệ.

Tâm lìa cảnh giới trói,

Trí giác tưởng liền khởi.

Cho đến tướng Thắng Diệu,

Đại trí huệ tự sanh.

Xa lìa tư duy tưởng,

Tâm, ý, và ý thức.

Bồ Tát Vô phân biệt 

Thanh Văn chẳng thể đến.

Tịch tịnh thắng tiến nhẫn (1)

Trí Như Lai trong sạch.

Khéo sanh Thắng Nghĩa Đế,

Sở hành thảy xa lìa.

Ta thuyết ba thứ trí,

Mở mang tánh chơn thật.

Nhị thừachứng đắc,

Chấp trước nơi tự tánh.

Nơi tưởng tư duy kia,

Nhiếp thọ tất cả tướng.

Thành Thanh Văn, Duyên Giác.

Bậc trí lìa chư hữu,

Siêu việt những tâm lượng,

thanh tịnh Như Lai.

(1) TịCH TịNH THẮNG TIẾN NHẪN : Trong Kinh Nhơn Vương nói năm thứ nhẫn là : Điều phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, Vô Sanh nhẫnTịch diệt nhẫn.

- Lại nữa, Đại Huệ! Ngoại đạo có chín thứ Chuyển Biến Luận (1) sanh kiến chấp chuyển biến của ngoại đạo, ấy là : Hình Xứ chuyển biến, Tướng chuyển biến, Nhân chuyển biến, Thành chuyển biến, Kiến chuyển biến, Tánh chuyển biến, Duyên Phân Minh chuyển biến, Sở Tác Phân Minh chuyển biến, Sự chuyển biến, gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến.

(1) CHÍN THỨ CHUYỂN BIẾN LUẬN CỦA NGOẠI ĐẠO :

1.- HÌNH XỨ chuyển biến : Là nói chúng sanh luân hồi trong lục đạo, mỗi mỗi hình tướng và vứ sở chuyển biến chẳng đồng.
2.- TƯỚNG chuyển biến : Là tướng của tứ đại ngũ ấm sanh, trụ, diệt chuyển biến chẳng đồng.

3.- NHÂN chuyển biến : Do chủng tử làm nhân, nhân diệt thì quả sanh, chuyển biến chẳng đồng.

4.- THÀNH chuyển biến : Là nói do nhân duyên thành tựu các pháp, có thành có hoại, chuyển biến chẳng đồng.

5.- KIẾN chuyển biến : Nói các pháp tùy thời gian biến đổi, trước thấy thì đúng, sau thấy thì sai, chuyển biến chẳng đồng.

6.- TÁNH chuyển biến : Nói các pháp chuyển lạ thành quen, chuyển đắng thành ngọt, chuyển biến chẳng đồng.

7.- DUYÊN PHÂN MINH chuyển biến : Nói mười hai nhân duyên sanh diệt chẳng ngừng, phân minh chuyển biến chẳng đồng.

8.- SỞ TÁC PHÂN MINH chuyển biến : Do duyên sở tác thành quả, có sanh rồi lại diệt, chuyển biến chẳng đồng.

9.- SỰ chuyển biến : Nói căn, thân, khí giới (vũ trụ vạn vật) các pháp hữu vi cuối cùng đều phải biến hoại.

Chín thứ chuyển biến này hoặc từ vô thành hữu, hoặc từ hữu thành vô, do đó vọng sanh phân biệt lập ra Chuyển Biến Luận.

- Đại Huệ! Tất cả ngoại đạochấp hữu và vô, sanh khởi Chuyển Biến Luận. Thế nào là HÌNH XỨ chuyển biến? Là thấy nhiều hình xứ khác nhau, ví như vàng ròng chuyển biến thành các thứ đồ dùng thì có mỗi mỗi hình xứ hiển hiện, mà chẳng phải có tánh vàng chuyển biến. Tất cả chuyẻn biến cũng như thế. Hoặc có ngoại đạo tự sanh vọng tưởng như thế; từ vọng tưởng HÌNH XỨ chuyển biến cho đến SỰ chuyển biến, tất cả tánh của chín thứ chuyển biến như thế, chẳng phải như vọng tưởng, cũng chẳng phải khác với vọng tưởng. Nên biết vọng tưởng chuyển biến của ngoại đạo, cũng như tô lạc, rượu, trái cây, v.v.. từ nhân ban sơ chuyển biến thành quả chín mùi, hoặc có hoặc không, tất cả đều do tự tâm hiện, ngoài tánh phi tánh, thật ra tự tâm chẳng có chuyển biến. Đại Huệ! Chúng sanh ngu si như thế, tự sanh vọng tưởng tu tập, thấy pháp hữu vô hoặc sanh hoặc diệt, như thấy sắc tướng sanh nơi mộng huyễn vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muôn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Lúc hình xứ chuyển biến,

tứ đại chuyển biến.

Trung ấm (thân) chẳng tứ đại,

Cũng không ngoài hình xứ.

Chuyển biến thuộc vọng tưởng,

Chẳng phải bậc Minh trí.

Vậy duyên khởi thế gian,

Như thành Càn Thát Bà.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết nghĩa tương tục và giải thoát của tất cả pháp. Nếu khéo phân biệt tướng của tất cả pháp tương tục hay chẳng tương tục, sẽ khiến con và các Bồ Tát khéo hiểu tất cả phương tiện khéo léo, chẳng đọa nghĩa sở thuyết của ngoại đạo chấp trước tương tục. Đối với tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp, lìa vọng tưởng ngôn thuyết văn tự dạo qua tất cả cõi Phật, trước vô lượng đại chúng hiện sức tự tại thần thông, Tổng trì Pháp ấn, đủ thứ biến hóa, ánh sáng chiếu soi giác huệ, khéo dùng Thập Vô Tận Cú, vô lượng phương tiện hạnh, cũng như nhựt nguyệt, châu Ma Nitứ đại, nơi tất cả Địa, lìa tự tướng vọng tưởng mà hiện. Thấy tất cả pháp như mộng huyễn, vào địa vị Phật nơi tất cả cõi chúng sanh, tùy cơ thích ứngthuyết pháp để dẫn dắt họ, khiến được an trụ tự tâm, lìa pháp hữu vô và vọng tưởng sanh diệt, tất cả các pháp như mộng huyễn v.v.. Chuyển tướng Sở Y thành thân Tối Thắng, khác với nghĩa ngôn thuyết của ngoại đạo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Tà sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả các pháp vô lượng, như nghĩa sở thuyết chấp trước tương tục của ngoại đạo, ấy là : Tướng chấp trước tương tục, Duyên chấp trước tương tục, Tánh Phi Tánh chấp trước tương tục, vọng tưởng Sanh Bất Sanh chấp trước tương tục, vọng tưởng Diệt Bất Diệt chấp trước tương tục, vọng tưởng Thừa Phi Thừa chấp trước tương tục, vọng tưởng Hữu Vi, Vô Vi chấp trước tương tục, vọng tưởng Địa Địa Tự Tướng chấp trước tương tục, vọng tưởng Tự Vô Gián chấp trước tương tục, vọng tưởng Y Pháp Hữu Vô của ngoại đạo chấp trước tương tục, vọng tưởng Tam Thừa, Nhất Thừa Vô Gián chấp trước tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đây là những chúng sanh ngu si tự sanh vọng tưởng tương tục. Phàm phu vọng tưởng, đem những tương tục này, như con tằm nhả tơ làm kén, dùng tơ vọng tưởng tự trói trói người, tương tục chấp trước tướng có và không có.

- Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó thật chẳng có tướng tương tục và bất tương tục. Nếu quán tất cả pháp tịch tịnh thì vọng tưởng chẳng sanh, nên Đại Bồ Tát phải quán tất cả pháp tịch tịnh.

- Lại nữa, Đại Huệ! Giác được ngoài tánh phi tánh thì tướng tự tâm hiện lượng chẳng có, thuận theo sự quán sát tự tâm hiện lượng chẳng có thì tất cả tánh hữu và vô đều vô tướng. Vì tương tục tịch tịnh, nên nơi tất cả pháp chẳng có tướng Tương tục và bất Tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ! Trong đó chẳng có trói hay mở, cũng chẳng đọa tri kiến ỏỏ không thật không như thật ỏỏ cho là có trói có mở. Tại sao? Vì tất cả pháp hữu và vô đều bất khả đắc. Nếu thấy có tất cả pháp để Không là chưa thể quên nơi pháp; thấy có tất cả chúng sanh để độ thì chưa thể quên nơi chúng sanh, dù nói mở trói, nhưng chưa lìa trói, chẳng th gọi là cảnh giới chơn như thật tế.

- Nếu giác ngộ như thật tế, đối với tất cả pháp chẳng thấy có tất cả pháp để Không tức là nơi pháp mà lìa pháp; độ tất cả chúng sanh chẳng thấy có tất cả chúng sanh để độ, tức là nơi chúng sanh mà lìa chúng sanh, vì tất cả pháp và tất cả chúng sanh đều bất khả đắc vậy.

- Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu có ba thứ tương tục (là nguồn gốc của mười một thứ tương tục kể trên) ấy là : Tham, sân, si, nghiệp ái và tham ái của kiếp sau. Từ tham, sân, si sanh ra nghiệp ái và tham ái kiếp sau, do ba thứ tương tục này, khiến chúng sanh tương tục luân hồi trong lục đạo. Đại Huệ! Nếu tương tục đoạn dứt thì chẳng có tương tục và bất tương tục.

- Lại nữa, Đại Huệ! Chấp trước ba duyên hòa hợp (1) làm phương tiện thì sanh thức ấm tương tục chẳng ngừng, vì chấp trước phương tiện nên có tương tục. Nếu ba duyên hòa hợpthức ấm đoạn dứt thì thấy được ba giải thoát, tất cả tương tục đều chẳng sanh.

(1) BA DUYÊN HÒA HỢP : Tức là căn, cảnh, thức. Căn là lục căn, cảnh là lục trần. Thức là lục thức. Tất cả pháp đều do ba thứ nhân duyên này hòa hợp sanh khởi.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Vọng tưởng chẳng chơn thật,

Nói là tướng tương tục.

Nếu liễu tri chơn thật,

Thì lưới tương tục dứt.

chúng sanh vô tri,

Tùy ngôn thuyết nhiếp thọ.

Ví như con tằm kia,

Nhả tơ để tự trói.

Vọng trói của phàm phu,

Tương tục cũng như thế.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Như Thế Tôn sở thuyết, vì chấp trước mỗi mỗi nghĩa, mỗi mỗi vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sanh. Thế thì mỗi mỗi vọng tưởng phân biệt, mỗi mỗi các pháp vốn chẳng thật tánh, chỉ là hư vọng phân biệt mà thôi. Thế Tôn! Nếu chỉ có vọng tưởng tự tánh chẳng phải có pháp tự tánh khác làm đối đãi mà khởi thì các pháp đều chẳng tự tánh. Há chẳng phải Thế Tôn nói "Tập khí phiền não với thanh tịnh Niết Bàn thảy đều vô tánh ư?". Nếu nhiễm tịnh đều hoại, há chẳng phải có cái lỗi các pháp đoạn diệt ư? Tại sao Thế Tôn nói tất cả pháp chỉtự tánh vọng tưởng, là phi tánh, chẳng có thật thể? Há chẳng phải thành kiến chấp đoạn diệt ư?

Phật bảo Đại Huệ :

- Đúng thế, đúng thế! Như ngươi sở thuyết, Đại Huệ! Như Thánh Trí có tánh của tự tánh là : Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn, như thế, tánh của tự tánh tự tri, chẳng như tánh chấp của phàm phu, cho vọng tưởng tự tánh là chơn thật. Cái vọng tưởng tự tánh này chẳng phải có tánh tướng của tự tánh vậy.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Gỉả sử bậc Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh huệ nhãn tự tri, chẳng như Thiên nhãnNhục nhãn của phàm phu do vọng tưởng phân biệt mà tri. Thế thì vọng tưởng phân biệt chẳng thể kiến tánh đã rõ ràng, làm sao phàm phu được lìa vọng tưởng này? Chỉ có cảnh giới giác tri đúng như thật của bậc Thánh mới chuyển được vọng thức, xa lìa vọng tưởng phân biệt. Thế Tôn! Phàm phu hay phân biệt mỗi mỗi pháp, chẳng phải điên đảo; nhưng chẳng thể lìa mỗi mỗi phân biệt, cũng chẳng phải không điên đảo. Tại sao? Vì chẳng thể thấy cảnh giới như thật của bậc Thánh, và chẳng thấy tướng lìa hữu và vô.

- Thế Tôn! Bậc Thánh cũng có phân biệt như thế, cũng thấy như sự vọng tưởng, do tưởng chẳng lìa sự, cũng là chấp tướng. Chấp tướngcảnh giới của phàm phu, chẳng chấp tướng mới là cảnh giới tự sở hành của bậc Thánh. Bậc Thánh chẳng cho cảnh giới tự tướngcảnh giới, do cảnh giới của phàm phutự tâm thấy cảnh giới. Theo tướng duy nhấtVô Tướng, Bản thể của Vô TướngPháp Thể; bậc Thánh cũng thấy có tướng tự tánh, cũng thấy có pháp thể nơi tự tánh, nơi tướng của tự tánh phân biệt pháp thể cũng giống như vọng tưởng của phàm phu. Hiển hiện tự tánh như thế, chỉ là chẳng nói hữu nhân mà gọi là H"U, chẳng nói vô nhân mà gọi là VÔ, cho nên chẳng nói hữu vô, vì nói hữu nói vô thì đọa kiến chấp tánh tướng của các pháp. Nói bậc Thánh "chẳng đọa nơi hữu và vô" như thế này là chẳng đọa nơi tướng thấy là cảnh giới tự tướng, nên chẳng phải phàm phu có thể so bằng mà khác với cảnh giới của phàm phu. Nhưng sự thấy của bậc Thánh hoặc thấy cho là hữu nhân thì đọa nơi hữu, hoặc thấy cho là vô nhân thì đọa nơi vô, theo những thuyết kể trên là có rất nhiều lỗi. Tại sao? Vì chẳng biết tất cả pháp tướng vốn chẳng có tướng tự thể vậy.

- Thế Tôn! Do vọng tưởng tự tánh phân biệt, chẳng thể thấy được tánh tướng của tự tánh, vậy cái nào là vọng tưởng, cái nào chẳng phải vọng tưởng? Làm sao như thậtbiết vọng tưởng? Thế Tôn! Tướng vọng tưởngtướng tự tánh có khác hay chẳng khác? Nếu nói tướng vọng tưởngtướng tự tánh chẳng khác thì chẳng có cái nhân tương tự, vậy tại sao phàm phu chẳng như thật biết chỗ chẳng vọng tưởng của các pháp? Nếu nói là chúng sanh lìa vọng tưởng, thì tướng vọng tưởng chẳng như thật mà có, vậy tại sao Thế Tôn khiến chúng sanh lìa kiến chấp các pháp hữu vô mà lại chấp trướccảnh giới của bậc Thánh, đọa nơi hữu kiến? Sao chẳng nói pháp KHÔNG tịch tịnh phi tánh, mà lại nói sự Thánh Trí tự tánh?

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải ta chẳng thuyết pháp KHÔNG phi tánh, cũng chẳng phải đọa nơi hữu kiến, nói sự Thánh Trí tự tánh. Vì muốn khiến chúng sanh lìa sự kinh sợ, do chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tánh tướng của tự tánh và sự Thánh Trí tự tánh, đã chấp thật có tướng, nếu nói pháp KHÔNG thì họ kinh sợ, nên ta chẳng nói tánh tướng của tự tánh. Nhưng ta trụ nơi pháp KHÔNG như thật đã tự chứng đắc, lìa tướng mê hoặc, lìa kiến chấp tánh phi tánh do sự tâm hiện đắc tâm giải thoát, đúng như pháp ấn thật tướng sở ấn, nơi tánh của tự tánh do tự giác quán sát, lìa tướng thấy hữu và vô.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát chẳng nên lập "TẤT CẢ PHÁP BẤT SANH" làm tông. Tại Sao? Vì tông của tất cả tánh đều phi tánh, do có nhân đối đãi sanh ra tướng, nên nói tất cả pháp chẳng thể lập tông, lập tông ắt phải hoại. Nói "Lập tông phải hoại" là vì tông ấy do sự đối đãi mà lập. Nếu tất cả pháp chẳng lập tông thì tướng Vô sanh chẳng hoại, nên "Tất cả pháp chẳng th lập tông thì hoại". Đại Huệ! Hữu và vô chẳng sanh tông, vì đem tông vào tất cả tánh thì tướng hữu vô bất khả đắc. Đại Huệ! Gỉa sử tông kia chẳng sanh, đem "tất cả tánh chẳng sanh" mà lập tông, thế thì tông kia phải hoại. Vì tánh tướng hữu và vô bất sanh, do đó chẳng nên lập tông; vì năm phần luận (logic) có rất nhiều lỗi (Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận ghi có ba mươi lỗi), là do nhiều tướng khác biệt lần lượt làm nhân lẫn nhau và có sở tác, dó đó chẳng nên lập tông. Nói tất cả pháp bất sanh thì tất cả pháp không, như thế, tất cả pháp khôngtự tánh thì chẳng nên lập tông.

- Đại Huệ! Nhưng Đại Bồ Tát thuyết tất cả pháp như mộng huyễn, vì thấy tướng hiện hay chẳng hiện là do lỗi của sự thấy biết, nên nói tất cả pháp tánh như mộng huyễn. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa kiến chấp hữu và vô, muốn lìa sự kinh sợ của họ phải tùy cơ thuyết pháp, chớ khiến họ sanh tâm khủng bố, xa lìa pháp Đại thừa.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa nà mà thuyết kệ rằng :

Vô thuyết vô tự tánh,

Vô sự vô tương tục.

Phàm phu vọng chấp thật,

Như xác chết có giác.

Tất cả pháp bất sanh,

Chẳng như tông ngoại đạo.

Các pháp vốn Vô Sanh,

Do nhân duyên thành tựu.

Tất cả pháp bất sanh,

Bậc trí chẳng phân biệt.

Việc do lập tông sanh,

Kẻ giác phải diệt trừ.

Ví như mắt bệnh nhặm,

Vọng thấy tướng hoa đốm.

Tánh chấp trước cũng thế,

Do phàm phu vọng tưởng.

Phân biệt hiện tam giới,

Sự Tự Tánh chẳng có,

Mà lập sự tự tánh,

tư duy khởi vọng,

Tùy sự lập ngôn giáo,

Vọng tưởng rất lăng tăng.

Phật tử hãy siêu thoát,

Xa lìa các vọng tưởng.

Phi nước tưởng là nước,

Do khát nước vọng sanh.

Phàm phu mê như thế,

Bậc Thánh chẳng thấy vậy.

Bậc Thánh thấy trong sạch,

Chánh định tam giải thoát.

Xa lìa nơi sanh diệt,

Dạo đi cõi Vô Sanh.

Tu hành vô sở tu,

Cũng chẳng tánh phi tánh.

Tánh phi tánh bình đẳng,

Do đó sanh Thánh quả.

Thế nào tánh phi tánh?

Thế nào pháp bình đẳng?

Tâm tri tâm bất tri,

Trong ngoài và động tịnh.

Nếu người được đoạn dứt,

Ắt thấy tâm bình đẳng.

Khi ấy, Đại Huệ lại bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết, trí huệ quán sát Tiền Cảnh phan duyên các pháp, chẳng thấy có một pháp để đắc, ấy chỉ là giả lập phương tiện, sở nhiếp thọ và năng nhiếp thọ phi tánh thì cả hai đều không, thế thì trí cũng chẳng thể nhiếp thọ cái thuyết "Phân biệt bất sanh", ấy gọi là Trí. Vậy cái tên TRÍ này cũng là phương tiện giả lập mà thôi. Thế nào? Thế Tôn! Vì chẳng giác được tánh của tự tướng cộng tướng khác hay chẳng khác nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong làm chướng ngại nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá xa quá gần nên chẳng đắc tướng trí ư? Hoặc vì quá già quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí ư?

- Thế Tôn! Nếu do chẳng giác được sự khác hay chẳng khác của tự tướng cộng tướng nên chẳng đắc tướng trí thì chẳng nên nói TRÍ, nên nói VÔ TRÍ, vì có sự "chẳng đắc" vậy. Nếu do mỗi mỗi tánh tướng của tự tướng cộng tướng tự che khuất nên chẳng đắc tướng trí thì cũng là Vô Trí, chẳng phải trí. Thế Tôn! Do có nhĩ diệm (mẹ của trí) nên trí sanh, chẳng phải vô tánh có thể hợp thành sở tri của nhĩ diệm mà gọi là trí. Nếu do hòn núi vách đá địa, thủy, hỏa, phong, quá xa, quá gần, quá già, quá nhỏ, mù điếc, các căn chẳng đủ nên chẳng đắc tướng trí, vậy là vô trí, cũng chẳng phải trí, vì sự "Có Trí" bất khả đắc vậy.

Phật bảo Đại Huệ :

- Chẳng phải nghĩa VÔ TRÍ như ngươi nói mà cho là TRÍ. Ta chẳng nói sự phan duyên ẩn lấp như thế, trí huệ chẳng đắc tướng, là theo phương tiện kiến lập, giác được tự tâm hiện lượng, hữu và vô hữu, ngoài tánh phi tánh, biết mà "SỰ" chẳng thể đắc. Vì chẳng đắc nên trí ở nơi "nhĩ diệm" chẳng sanh; nếu tùy thuận ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thể đắc. Nếu người chẳng vọng tưởng thì có cái trí liễu tri các tập khí hư ngụy tánh phi tánh từ vô thỉ, cái tri này phàm phu ngoại đạo chẳng thể tri. Do đó, phàm phu đối với sở ngoại cảnh, tánh tướng vô tánh, vọng tưởng chẳng dứt, vì chấp trước nhiếp thọ, kiến lập tự tâm hiện lượng nói có tướng ngã và ngã sở, mà chẳng biết tự tâm hiện lượng, nơi trí nhĩ diệm mà khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng chẳng thể quán sát ngoài tánh phi tánh, lại dựa theo đoạn kiến của ngoại đạo.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Chẳng trụ sự phan duyên,

trí huệ quán sát,

Vô trí tức Chánh Trí,

Vọng cho là phi trí.

Nơi tánh tướng chẳng khác,

Nếu chấp theo quán sát,

Những chướng ngại xa gần,

Ấy gọi là tà trí.

Do lục căn chẳng đủ,

Nói trí huệ chẳng sanh.

Thật thì có nhĩ diệm,

Ấy cũng gọi tà trí.

- Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu ngu si chẳng khéo liễu tri, chấp tướng ngoài tánh tự tâm hiện, bị vọng tưởng tà ác hư ngụy từ vô thỉ xoay chuyển. Lúc xoay chuyển thì chẳng thể đạt đến Tự Tông Thông và Thuyết Thông, nên chấp cái thuyết phương tiện, mà chẳng khéo phân biệt tứ cú của Tự Tông và Tướng Thông trong sạch.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :

- Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn cộng sanh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyênnội duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.

- Thế nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp Nội Duyên.

- Đại Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân, Đối đãi nhân.

1. Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu Nhân.

2. Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương Tục Nhân.

3. Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi là Tướng Nhân.

4. Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.

5. Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.

6. Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.

- Đại Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả đều Vô sanh,

Cũng không nhân duyên diệt.

Ở nơi tướng sanh diệt,

Mà khởi nhân duyên tưởng.

Pháp diệt rồi lại sanh,

Do nhân duyên tương tục.

Vì đoạn dứt si mê,

Của tất cả chúng sanh.

Nên thuyết pháp duyên khởi,

Các pháp thật Vô Sanh.

Do tập khí mê hoặc,

Từ đó hiện tam giới.

Duyên thật vốn Vô Sanh,

Lại cũng chẳng có diệt.

Tất cả pháp hữu vi,

Như hoa đốm trên không.

Nếu lìa bỏ kiến chấp,

Năng nhiếp và sở nhiếp.

Chẳng có Vô nhân sanh,

Và đã sanh, sẽ sanh.

Sự sanh vốn chẳng có,

Thảy chỉ là ngôn thuyết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12502)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10384)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12347)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11651)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28812)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12055)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13013)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11447)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35493)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12409)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26049)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14385)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16092)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17589)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13134)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12539)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11613)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11619)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20489)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18996)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12322)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13866)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15032)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15038)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15527)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17199)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14983)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20210)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14627)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13848)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11712)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15066)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22888)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14561)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11662)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16890)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11948)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11506)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15858)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12892)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18922)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18429)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant