Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Thuyết Thông và Tông Thông

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8736)
8. Thuyết Thông và Tông Thông

KINH LĂNG GIÀ
LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BỬU KINH
Pháp Sư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sang Hán đời nhà Tống.
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực

QUYỂN THỨ BA

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Đúng như Phật dạy, cúi xin Thế Tôn vì chúng con phân biệt Thuyết Thông và Tông Thông, khiến con và các Đại Bồ Tát thấu rõ hai thứ thông, cũng khiến phàm phu, Thanh VănDuyên Giác đời vị lai chẳng mắc lỗi lầm.

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ:

- Tam thế Như Lai có hai thứ pháp thông, là Thuyết ThôngTự Tông Thông. Nói THUYẾT THÔNG, là tùy sự thích ứng của tâm chúng sanh mà thuyết mỗi mỗi pháp ghi đủ trong khế kinh (Khế lý khế cơ), gọi là Thuyết Thông. Nói TỰ TÔNG THÔNG, là nói người tu hành lìa mỗi mỗi vọng tưởng do tự tâm hiện, chẳng đọa kiến chấp nhị biên nhất hay dị, đồng hay chẳng đồng, siêu thoát, tất cả tâm, ý, ý thức. Đối với cảnh giới Tự Giác Thánh Trí, lìa kiến chấp nhân duyênkiến chấp tương ưng do công hạnh tạo tác mà thành. Tất cả ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, người đọa nhị biên đều chẳng thể biết, ta gọi là pháp Tự Tông Thông. Đại Huệ! Tướng Tự Tông Thông và Thuyết Thông này, ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Ta nói hai thứ thông,

Tông thông và Thuyết thông.

Thuyết thông dạy sơ cơ,

Tông thông là giải thoát.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Như Thế Tôn có khi nói rằng : "Đối với mỗi mỗi lập luận của thế gian chớ nên gần gũi học tập. Nếu gần gũi học tập là nhiếp thọ tham dục, chẳng Nhiếp Thọ pháp". Tại sao Thế Tôn nói như thế?

Phật bảo Đại Huệ :

- Mỗi mỗi nghĩa cú ngôn luận của thế gian nhân duyên tích tập, những nhân duyên thí dụ giống như trang nghiêm để dụ dẫn dối gạt những phàm phu ngu si, chẳng thể vào chơn thật tự thông, chẳng biết tất cả pháp vọng tưởng điên đảo. Phàm phu mê hoặc, đọa nơi tà kiến nhị biên, tự phá hoại chánh kiến chánh pháp, luân hồi lục đạo, chẳng thể giải thoát. Do vọng tưởng chấp trước, chẳng thể giác được tự tâm hiện lượng, chẳng lìa ngoài tánh của tự tánh. Do đó, mỗi mỗi lập luận của thế gian chẳng thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, dối gạt và mê hoặc.

- Đại Huệ! Xưa kia Thích Đề Hoàn Nhân rộng hiểu các luận, tự tạo Thanh Luận. Bọn Thế Luận kia có một người đệ tử hiện hình tượng rồng, đến Thiên cung Đế Thích kiến lập tông chỉ Thế Luận, và hẹn nhau với Thích Đế Hoàn Nhân rằng: "Nay ta cùng ngươi biện luận, nếu ta thắng thì tasẽ hoại bánh xe ngàn căm của ngươi, nếu ngươi thắng thì sẽ chém đầu ta để tạ lỗi cho ngươi". Hẹn xong bèn dùng Thế Pháp lật đổ Thanh Luận của Đế Thích, liền phá hủy bánh xe rồi trở về thế gian. Đại Huệ! Như con rồng là súc sinh cũng có thể dùng mỗi mỗi nghĩa cú, ngôn luận thế gian, nhân duyên thí dụ trang nghiêm để mê hoặc chư ThiênA Tu La, khiến dính mắc kiến chấp sanh diệt, huống là loài người ư! Do đó, ngôn luận thế gian cần nên xa lìa, vì hay làm nhân sanh quả khổ, chớ nên gần gũi học tập.

- Đại Huệ! Bọn Thế Luận chỉ nói cảnh giới thân giác mà thôi. Đại Huệ! Có trăm ngàn Thế Luận kia, sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, sẽ phá hoại sự kết tập kinh điển, do ác giác họ thịnh hành nơi thế gian, có nhiều ác đệ tử ham thọ pháp họ. Đại Huệ! Họ dùng đủ thứ nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiệm để thuyết việc ngoại đạo dùng Thế Luận để phá hoại sự kết tập kinh điển, vì tự chấp nhân duyên, chẳng có tự thông. Đại Huệ! Bọn ngoại đạo kia chẳng có Tự Thông Luận, lập ra Thế Luận, rộng thuyết vô lượng trăm ngàn sự môn, chẳng thể tự thông, cũng chẳng tự biết ngu si, chấp Thế Luận là chơn lý.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Nếu ngoại đạo sở thuyết mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêm của Thế Luận, do tự chấp trước, chẳng có tự thông. Thì Thế Tôn cũng thuyết thế luận vì mỗi mỗi Trời, Người, và A Tu La từ các phương đến tụ hội, Phật cũng rộng thuyết vô lượng nghĩa cú, há cũng chẳng phải không có tự thông ư! Há cũng lọt vào số ngôn thuyết trí huệ của tất cả ngoại đạo ư?

Phật bảo Đại Huệ :

- Ta chẳng thuyết Thế Luận, chẳng thuyết khứ lai, chỉ thuyết bất khứ bất lai. Đại Huệ! LAI là tụ họp, KHỨ là tan rã, CHẲNG KHỨ CHẲNG LAI là bất sanh bất diệt. Cái nghĩa của Ta thuyết chẳng đọa nơi số vọng tưởng của Thế Luận. Tại sao? Vì chẳng chấp trước ngoài tánh phi tánh, vọng tưởng nhị biên nơi tự tâm hiện chẳng thể xoay chuyển, là cảnh tướng phi tánh. Giác được tự tâm hiện thì vọng tưởng của tự tâm hiện chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì vào ba cửa giải thoát : KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC, gọi là giải thoát.

- Đại Huệ! Ta nhớ xưa kia cư trú một nơi, có Thế Luận Bà La Môn đến chổ Ta ở, chẳng màng đến Ta có rảnh hay không, bèn hỏi Ta rằng :"Cù Đàm! Tất cả pháp là sở tác ư?" Ta đáp ngay rằng : "Bà La Môn! Nói tất cả pháp sở tác là thuộc về Thế Luận thứ nhất". Họ lại hỏi : "Tất cả pháp là phi sở tác ư?" Ta cũng đáp rằng : "Tất cả pháp phi sở tác thuộc Thế Luận thứ hai". Họ hỏi tiếp: "Tất cả pháp thường ư? Tất cả pháp vô thường ư? Tất cả pháp sanh ư? Tất cả pháp bất sanh ư?" Ta liền đáp : "Ấy là Thế Luận từ thứ ba đến thứ sáu."

- Đại Huệ! Họ lại hỏi rằng: "Tất cả pháp là nhất ư? Tất cả pháp là dị ư? Tất cả pháp đồng ư? Tất cả pháp chẳng đồng ư? Tất cả pháp do mỗi mỗi thọ sanh mà hiện ư?". Ta trọn đáp rằng: "Ấy là Thế Luận từ thứ bảy đến thứ mười một". Đại Huệ! Họ lại hỏi : "Tất cả pháp vô ký ư? Tất cả là ký ư? Hữu ngã ư? Vô ngã ư? Có đời này ư? Chẳng đời này ư? Có đời khác ư? Chẳng đời khác ư? Có giải thoát ư? Không giải thoát ư? Tất cả là sát na ư? Tất cả chẳng là sát na ư? Là hư không ư? Là chẳng phải số diệt ư? Là Niết Bàn ư? Là do Cù Đàm tác ư? Chẳng phải tác ư? Có thân trung ấm ư? Chẳng thân trung ấm ư?" Đại Huệ! Ta đáp rằng: "Bà La Môn! Những câu hỏi như thế đều là Thế Luận của ngươi, chẳng phải sở thuyết của Ta. Ta chỉ thuyết mỗi mỗi ác nghiệp tập khí vọng tưởng hư ngụy từ vô thỉ là nhân của tam giới, những người chẳng thể giác tri tự tâm hiện lượng mà sanh vọng tưởng phan duyên ngoài tự tánh, như pháp của ngoại đạo nói : Ề Do ngã và căn, cảnh ba duyên hoà hợp mà có cái biết sanh khởi. Ta thì chẳng như thế. Bà La Môn! Ta chẳng thuyết Nhân, chẳng thuyết Vô Nhân, chỉ thuyết cái tánh vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp giả lập pháp duyên khởi, chẳng phải ngươi và những người chấp ngã tương tục có thể biết được."

- Đại Huệ! Nói NIẾT BÀN, HƯ KHÔNG, và TịCH DIỆT chẳng phải có ba thứ, chỉ là số lượng có ba mà thôi.

- Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Thế Luận Bà La Môn lại hỏi Ta rằng: "Do si ái nghiệp làm nhân mà có tam giới ư? Hay là vô nhân ư?" Ta đáp rằng : "Hai thứ này cũng là Thế Luận thôi". Họ lại hỏi : "Tất cả tánh đều vào tự tướng cộng tướng ư?" Ta lại đáp: "Đây là Thế Luận. Bà La Môn! Nói tóm lại, từ những câu hỏi của ngươi cho đến dòng suối ý thức vọng chấp ngoại trần, tất cả đều là Thế Luận."

- Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Thế Luận Bà La Môn lại hỏi Ta rằng : "Mỗi mỗi nghĩa cú nhân duyên thí dụ trang nghiêmtông chỉ của tất cả ngoại đạo, đều thuộc Thế Luận, vậy còn có pháp nào chẳng phải Thế Luận ư?" Ta đáp rằng: "Bà La Môn! Có. Mà chẳng phải ngươi có, phi tác phi tông, phi thuyết phi bất thuyết, phi bất nhân duyên thí dụ trang nghiêm." Bà La Môn hỏi : "Thế nào là phi Thế Luận, phi phi tông, phi phi thuyết?" Ta đáp rằng: "Bà La Môn! Có phi Thế Luận mà ngoại đạo các ngươi chẳng thể biết, vì vọng tưởng chẳng thật, hư ngụy chấp trước nơi ngoài thánh. Nói VO.NG TƯỞNG CHẲNG SANH, nếu giác liễu pháp hữu vô và tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh, chẳng nhiễm ngoại trần, dứt hẳn vọng tưởng, ấy gọi là Phi Thế Luận. Đây là pháp tu chẳng phải ngươi có vậy". Khi ấy, Bà La Môn lại lược thuyết sự nhận thức của họ, hoặc khứ hoặc lai, hoặc sanh hoặc tử, hoặc vui hoặc khổ, hoặc chìm hoặc nổi, hoặc ẩn hoặc hiện, hoặc hòa hợp hoặc tương tục, hoặc ái hoặc nhân ái, chấp trước đủ thứ tướng. Ta nói: "Bà La Môn! So Đo như thế đều là Thế Luận của bọn ngươi chẳng phải ta có". Đại Huệ! Thế Luận Bà La Môn hỏi như thế, ta đáp như thế, họ liền im lặng chẳng từ giả mà lui ra, lại còn suy tư chỗ Tự Thông mà nghĩ rằng : "Sa Môn Thích thử vượt ra ngoài tướng thông, nói Vô Sanh, Vô Tướng, Vô Nhân, giác được tướng hiện của tự vọng tưởng thì vọng tưởng chẳng sanh." Đại Huệ! Đây tức là chỗ ngươi hỏi Ta "Tại sao nói gần gũi Thế Luận đủ thứ biện luận, là nhiếp thọ tham dục, chẳng nhiếp thọ pháp?"

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Thế Tôn! Nhiếp thọ tham dục và pháp có nghĩa cú gì?

Phật bảo Đại Huệ :

- Lành thay, lành thay! Ngươi khéo vì chúng sanh đời vị lai tư duy xin hỏi nghĩa cú như thế. Ta sẽ vì người mà thuyết, hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ.

Đại Huệ Bồ Tát bach Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Đối với nghĩa THAM, có thủ có xả, hoặc ham tiếp xúc hoặc ham mùi vị, dính mắc ngoại trần, đọa tà kiến nhị biên, do đó luân hồi tương tục, lại sanh ngũ ấm, sanh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, khổ não, các thứ nghiệp khổ đều từ tham ái sanh khởi, đều do gần gũi nhiễm tập Thế Luận, thành kẻ Thế Luận. Ta và chư Phật nói là THAM, ấy gọi nhiếp thọ tham dục mà chẳng nhiếp thọ pháp.

- Đại Huệ! Thế nào là Nhiếp Thọ Pháp? Là khéo thấu rõ tự tâm hiện lượng, thấy tướng nhân vô ngãpháp Vô Ngã thì vọng tưởng chẳng sanh, khéo biết từng bậc tiến lên chư Địa của Bồ Tát, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật trí huệ quán đảnh, trọn vẹn nhiếp thọ Thập Vô Tận Cú, nơi tất cả pháp cũng chẳng có mở mang tự tại, ấy gọi là PHÁP, nghĩa là chẳng đọa tất cả kiến chấp, tất cả hư ngụy, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh tướng, tất cả nhị biên, v.v... Đại Huệ! Có nhiều hạng si mê ngoại đạo nơi nhị biên, hoặc thường hoặc đoạn, chẳng phải người có trí huệ. Chấp thọ Vô Nhân Luận thì sanh khởi thường kiến, chấp ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh thì sanh khởi đoạn kiến. Đại Huệ! Ta chẳng thấy sanh, trụ, diệt, nên nói là PHÁP. Đại Huệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả thế gian luận

ngoại đạo vọng thuyết.

Vọng thấy tác sở tác,

Thuyết họ chẳng tự thông.

Duy nhất Tự Tông Ta,

Lìa nơi tác sở tác.

Vì các đệ tử thuyết,

Xa lìa những Thế Luận.

Tâm Lượng chẳng thể thấy,

Nhiếp sở nhiếp phi tánh.

Chẳng quán sát hai tâm,

Đoạn thường thảy đều lìa.

Ngoại đạo tâm lưu chuyển.

Ta gọi là Thế Luận.

Người vọng tưởng chẳng chuyển,

Người ấy thấy tự tâm,

LAI thì có sự sanh,

KHỨ thì sự chẳng hiện.

Thấu rõ việc khứ lai,

Thì vọng tưởng chẳng khởi.

Hữu thường và vô thường,

Năng tác và sở tác,

Đời này hay đời sau,

Đều là Thế Luận Thông.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Thế Tôn! Phật nói NIẾT BÀN, pháp nào gọi là Niết Bàn? Mà các ngoại đạo đối với pháp Niết Bàn mỗi mỗi sanh khởi vọng tưởng khác nhau?

Phật bảo Đại Huệ:

- Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :

- Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ :

- Như vọng tưởng Niết Bàn của các ngoại đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo diệt ấm, giới,nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ ấm hết như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ những cảnh giới này cho là Niết Bàn. Đại Huệ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết Bàn.

- Đại Huệ! Hoặc có ngoại đạo cho "từ phương này đến phương kia" gọi là giải thoát, thấy cảnh giới của tưởng ấm diệt cũng như gió ngưng; hoặc thấy năng giác sở giác đoạn diệt, gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sanh ra khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có tưởng mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng hoại, cho là Niết Bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tất cả pháp ngoại, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp có ngã, kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánhsĩ phu, giữa hai có chút ngăn cách, nói Thần ngã của sĩ phu hay sanh tự tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là tự tánh, ví như Minh Sơ (1), Cầu Na (2) là y theo Thần ngã ban sơ sanh giác. Cầu Na dụ cho vi trần, cho Cầu Natác giả, nói từ vi trần sanh tứ đại, cũng như từ sĩ phu sanh tự tánh, rồi chấp có Thần ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết Bàn.

(1) MINH SƠ : Thuật ngữ, Số Luận sư lập hai mươi lăm đế, đế thứ nhất là Minh Đế, vì Minh Đếban sơ của các pháp, nên gọi là Minh Sơ.
(2) CẦU NA : Dịch là y chỉ, là thật thể của tứ đại mà sanh ra các đức dụng của sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v... Còn ở Thập Cú Nghĩa Luận thì nói gồm hai mươi bốn đức. Ngoài ra, Số Luận nói gồm có ba đức : Vui, buồn và ám muội.

- Hoặc có ngoại đạo nói hết phước và phi phước, hoặc nói các phiền não chẳng do tu trí huệ mà tự dứt, hoặc thấy Cõi Trời Tự Tại là kẻ chơn thật tạo tác sanh tử, cho là Niết Bàn. Hoặc nói chúng sanh ở nơi này chết thọ sanh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến nay, vô nhân tự có, do đó chấp trước sanh tử chẳng có nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân, tưởng là Niết Bàn. Hoặc nói từ tự tánh sanh tứ đại, tứ đại sanh ý, ý sanh trí, trí sanh ngũ phần, ngũ phần sanh ngũ tri căn, ngũ tri căn sanh ngũ nghiệp căn, ngũ nghiệp căn sanh ngũ đại, gọi là hai mươi lăm Minh Đế của tự tánh, hay sanh các pháp rồi trở về tự tánh thì lìa tất cả sanh tử. Chấp Minh Đế này cho là đắc đạo Chơn Đế, tưởng là Niết Bàn.

- Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng chẳng đồng hòa hợp sanh khởi công đức (như vi trần sanh khởi thế giới, vi trần là năng tác, thế giớisở tác, tức là công đức), cho là Niết Bàn. Hoặc thấy vạn vật như cây gai nhọn, như sự lộng lẫy của con công và đủ thứ bửu vật, chẳng có kẻ tác, vô nhân tự có, cho là Niết Bàn.

- Đại Huệ! Hoặc có hai mươi lăm Minh Đế là chơn thật, và cho Lục Đức Luận

(1. Thật, 2. Đức, 3. Nghiệp, 4. Tứ Đại, 5. Hòa hợp, 6. Đồng dị) là nhân sanh ra các pháp, nói giữ được hai pháp này hộ trì quốc độ chúng sanh, khiến được an lạc tức là Niết Bàn. Hoặc cho thời gian là kẻ tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ giác như thế, tưởng là Niết Bàn. Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là tánh phi tánh, thấy có giác này với Niết Bàn sai biệt mà chẳng khác, tưởng là Niết Bàn. Đủ thứ vọng tưởng so đo chấp trước của ngoại đạo sở thuyết, nơi lý chẳng thành, bậc Trí nên bỏ những thuyết này vậy.

- Đại Huệ! Niết Bàn vọng tưởng của ngoại đạo, tất cả đều đoạn kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết Bàn. Mỗi mỗi Niết Bàn của ngoại đạo họ tự lập luận, bậc trí huệ quán sát vọng tưởng của họ, tâm ý khứ lai, trôi giạt lưu động, hoặc sanh hoặc diệt, lập như vô sở lập, thật thì chẳng có kẻ đắc Niết Bàn.

- Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta thuyết là khéo giác tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú, thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự Giác Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm sâu, lìa tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết Bàn. Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của ngoại đạo.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Niết Bàn của ngoại đạo,

Mỗi mỗi sanh vọng tưởng.

Vọng tưởng từ tâm khởi,

Chẳng cách nào giải thoát.

Không dây mà tự trói,

Xa lìa phương tiện khéo.

Dù tưởng là giải thoát,

Thật chẳng thể giải thoát.

Tướng thông của ngoại đạo,

Nhiều loại trí khác nhau.

ngu si vọng tưởng,

Giải thoát chẳng có phần.

Tất cả ngoại đạo kia,

Vọng thấy tác, sở tác.

Chấp hữu, vô lập luận,

Thảy đều chẳng giải thoát.

Phàm phu ham vọng tưởng,

Chẳng nghe pháp chơn thật.

Chơn thật diệt nhân khổ,

Tam giới gồm ba khổ :

Khổ khổhoại khổ,

Hành tam ác đạo khổ.

Ví như tượng trong gương,

Dù hiện mà chẳng thật.

Vọng tưởng nơi tâm gương,

Phàm phu sanh nhị kiến.

Chẳng biết tâm và duyên,

Sanh vọng tưởng nhị biên.

Liễu tâm và cảnh giới,

Thì vọng tưởng chẳng sanh.

Tâm thể tức vạn pháp,

Sự hiện mà chẳng hiện.

Xa lìa tướng sở tướng

Như phàm phu phân biệt.

Vọng tưởng sanh tam giới,

Vọng hiện đủ thứ tướng.

Đều chẳng có nghĩa thật,

Mà kẻ ngu chẳng biết.

Chư kinh nói vọng tưởng,

Chẳng ra ngoài giả danh.

Nếu lìa nơi ngôn thuyết,

Phật nói Vô Sở thuyết.

QUYỂN BA HẾT

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Thế Tôn rằng :

- Cúi xin Phật thuyết tướng nhân duyên của tất cả các pháp, do giác đựơc tướng nhân duyên, khiến con và các Bồ Tát được lìa tất cả tánh của vọng kiến hữu vô, chẳng vọng chấp các pháp tiệm sanh, hoặc đốn sanh, hoặc tiệm đốn cộng sanh.

Phật bảo Đại Huệ :

- Tất cả pháp có hai thứ duyên tướng, là ngoại duyênnội duyên. Ngoại Duyên là : Cục đất, cây cọc, bánh xe, sợi dây, nước, gỗ, nhân công, các thứ phương tiện làm duyên, sanh ra cái bình như bình đất, còn các thứ tơ, lụa, lát chiếu, giống mầm, tô lạc v.v... do ngoại duyên phương tiện sanh ra cũng như thế. Ấy gọi là tướng Ngoại Duyên.

- Thế nào là Nội Duyên? Vì có vô minh ái nghiệp các pháp hòa hợp gọi là năng duyên, từ đó sanh khởi các pháp ấm, giới, nhập, gọi là sở duyên. Các pháp do tự tâm sở hiện vốn chẳng sai biệt, mà phàm phu vọng chấp, thành có sai biệt, ấy gọi là pháp Nội Duyên.

- Đại Huệ! Nói về Nhân gồm có sáu thứ, ấy là : Đương hữu nhân, Tương tục nhân, Tướng nhân, Tác nhân, Hiển thị nhân, Đối đãi nhân.

1. Đương Hữu Nhân : Vì thức thứ tám từ vô thỉ đến nay hay làm nhân cho tất cả pháp, từ nhân sanh quả, bất khả tư nghì, đương lúc đó làm nhân, nên gọi là Đương Hữu Nhân.

2. Tương Tục Nhân : Vì bên trong nương thức thứ tám và thức thứ sáu, phan duyên ngoại cảnh, từ đó pháp trong ngoài làm nhân sanh quả như ngũ ấm chủng tử v.v... do hiện hành huân tập chủng tử, lại do chủng tử huân tập hiện hành, mà quả nhiễm tịnh theo đó liên tục sanh khởi chẳng dừng, nên gọi là Tương Tục Nhân.

3. Tướng Nhân : Do cái đẳng Vô Gián Duyên ( duyên chẳng gián đoạn ) làm ra tướng Vô Gián, sanh ra quả tương tục. Nơi tương tục có tướng Vô Gián đã lìa nơi nhân mà chưa đến nơi quả, vì nó chẳng gián đoạn cho nên tương tục. Vì ở nơi chính giữa của nhân và quả mà có tướng,, nên gọi là Tướng Nhân.

4. Tác Nhân : Tức là tăng thượng duyên, ấy là tạo nghiệp tăng thượng mà sanh ra quả, cũng như Chuyển Luân Vương, do thân thể chứng đắc Luân Vương làm bản nhân mà bánh xe Thất Bửu từ hư không bay đến, ấy là sự tăng thượng. Vì cảnh chẳng thể sanh quả, phải nhờ tâm làm tăng thượng, Luân Vương mới có thể làm ra thắng nhân. Vì tâm làm tăng thượng duyên cho cảnh ( bánh xe bay ), nên gọi là Tác Nhân.

5. Hiển Thị Nhân : Sự vọng tưởng sanh rồi thì hiện cái tướng năng tác, sở tác, như cây đèn chiếu soi hiển thị sắc tướng v. v... gọi là Hiển Thị Nhân.

6. Đối Đãi Nhân : Là lúc pháp diệt thì sự tương tục đoạn đứt, mà ngay đó tánh ''chẳng vọng tướng'' sanh khởi. Đại Huệ! Tự tướng vọng tưởng của phàm phu chẳng lần lượt sanh, chẳng cùng chúng sanh. Tại sao? Nếu cùng lúc sanh thì chẳng phân biệt được năng tác, sở tác, vì chẳng có tướng nhân. Nếu lần lượt sanh thì chẳng có tự tướng, cho nên chẳng thể có lần lượt sanh, như chẳng sanh con thì không được gọi là cha. Đại Huệ! Vì cha với con làm nhân đối đãi với nhau, không có cha thì không sanh được con, không có con thì không được gọi là cha; cha con đối đãi nhau mà sanh, nên gọi là Đối Đãi Nhân.

- Đại Huệ! nói tóm lại, các thứ tướng sanh đều do các thứ nhân của tự tánh vọng tưởng chấp tướng mà sanh. Vì tự tâm hiện ra thọ dụng mà có tự tướng, cộng tướng, ngoại tánh, phi tánh; thực ra Lần Lượt Sanh và Cùng Lúc Sanh hai thứ đều chẳng thể sanh. Cho nên phải lìa hai thứ kiến chấp đó.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng :

Tất cả đều Vô sanh,

Cũng không nhân duyên diệt.

Ở nơi tướng sanh diệt,

Mà khởi nhân duyên tưởng.

Pháp diệt rồi lại sanh,

Do nhân duyên tương tục.

Vì đoạn dứt si mê,

Của tất cả chúng sanh.

Nên thuyết pháp duyên khởi,

Các pháp thật Vô Sanh.

Do tập khí mê hoặc,

Từ đó hiện tam giới.

Duyên thật vốn Vô Sanh,

Lại cũng chẳng có diệt.

Tất cả pháp hữu vi,

Như hoa đốm trên không.

Nếu lìa bỏ kiến chấp,

Năng nhiếp và sở nhiếp.

Chẳng có Vô nhân sanh,

Và đã sanh, sẽ sanh.

Sự sanh vốn chẳng có,

Thảy chỉ là ngôn thuyết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33259)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6551)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11293)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30408)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30438)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7989)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12204)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12266)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11610)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12838)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34793)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9850)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52276)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10756)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10720)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10476)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13092)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16293)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21855)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9628)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7130)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10402)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12768)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12802)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16240)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16540)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13873)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16600)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12136)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13829)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14336)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9220)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11765)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11285)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16334)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14348)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16196)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12701)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12085)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11802)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15671)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11520)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14024)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12020)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12638)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15002)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11966)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13137)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14564)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20730)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13241)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10970)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20717)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14371)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20401)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17669)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14026)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31864)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12023)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant