Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyển Hạ

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11912)
Quyển Hạ

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI
Dao Tần, Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập
Định Huệ Việt dịch

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:

- Thế Tôn! Chưa từng có vậy! Hôm nay Thế Tôn nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội mà ác ma chẳng đến nhiễu loạn.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Ông muốn thấy sự suy não của ác ma chăng?

Lúc ấy Phật phóng ánh sáng từ tướng đại nhân nơi lông trắng giữa chặng mày, tất cả chúng hội đều thấy ác mà bị trói năm lớp không thể tự cởi.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

- Ông thấy ác ma bị trói năm chỗ chăng?

- Thưa, con đã thấy, nhưng ác ma này bị ai trói buộc?

- Sức oai thần của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, tại chỗ cõi Phật nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, trong đó các ma muốn đem tâm ác làm chướng ngại, do vì sức oai thần của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội và chư Phật mà các ác ma ấy đều tự thấy thân mình bị trói buộc năm chỗ. Này Xá-lợi-phất! Tại chỗ nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hoặc ta còn hiện tại, hoặc sau khi ta diệt độ, trong đó có các ma, ma dân và những người khác mang tâm ác, do vì sức oai thần của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội nên đều bị trói buộc năm chỗ.

Bấy giờ, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… trong hội bạch Phật:

- Thế Tôn! Chúng con đối với tam-muội này tâm không có nghi, chẳng bị chướng ngại, chúng con chẳng muốn thân bị trói buộc ở năm chỗ.

Thế Tôn! Chúng con vì cung kính tam-muội này nên đều phải qua ủng hộ người nói pháp này, đối với tam-muội này tưởng như đức Thế Tôn.

Phật hỏi chư Thiên, Long thần:

- Vì lý do này, các ông sẽ được giải thoát mười hai kiến phược. Những gì là mười hai? Ngã kiến phược, chúng sinh kiến phược, thọ mạng kiến phược, nhân kiến phược, đoạn kiến phược, thường kiến phược, ngã tác kiến phược, ngã sở kiến phược, hữu kiến phược, vô kiến phược, thử bỉ kiến phược, chư pháp kiến phược, đó là mười hai kiến phược. Các ông nên biết, nếu có chúng sinh ở trong Phật pháp khởi tâm giận hờn muốn hủy hoại, đó là vì họ đều trụ nơi mười hai kiến phược này. Nếu người tin giải tùy thuận chẳng nghịch thì đối với mười hai kiến phược này sẽ được giải thoát.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:

- Thế Tôn! Ác ma hôm nay có được nghe nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chăng?

- Cũng được nghe, nhưng vì bị trói buộc nên chẳng thể đến.

- Đức Như Lai sao chẳng dùng thần lực khiến cho ma chẳng nghe nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.

- Thôi đi! Chớ nói như thế. Giả sử lửa lớn đầy trong thế giới nhiều như cát sông Hằng, vì nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này cũng nên đi ngang qua trong ấy. Vì sao? Nếu người chỉ nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, ta nói người này rất được thiện lợi hơn đắc tứ thiền sinh vào bốn cõi Phạm thiên.

Này Xá-lợi-phất! Nếu như ác ma hôm nay được nghe nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, do nhân duyên này sẽ được vượt qua tất cả việc ma. Nếu đang bị trói buộc mà được nghe tam-muội này thì cũng sẽ được giải thoát mười hai kiến phược này. Thế nên, này Xá-lợi-phất! Người ác tà kiến vào trong lưới ma còn nên nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này hà huống người tâm thanh tịnh vui vẻ muốn nghe.

Bấy giờ, trong hội có một vị bồ-tát tên Ma Giới Hạnh Bất Ô bạch Phật:

- Xin vâng Thế Tôn! Nay con sẽ hiện ở trong cảnh giới ma, dùng thần lực tự tại khiến ma được trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.

Phật nói:

- Tùy ý.

Bây giờ, bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô liền ở trong hội hốt nhiên biến mất, hiện ở cung ma nói với ác ma:

- Ngươi đâu chẳng nghe Phật nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác ra khỏi cảnh giới của ngươi, cũng đều sẽ độ thoát người khác ra khỏi cảnh giới của ngươi.

Ma liền nói:

- Tôi nghe Phật nói danh tự Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, nhưng vì tôi bị trói năm chỗ nên chẳng qua được; năm chỗ là hai tay, hai chân và đầu.

- Ai trói buộc ngươi?

- Tôi vừa mống tâm muốn qua khuấy phá người nghe nhận Thủ-lăng-nghiêm tam-muội liền bị trói năm chỗ. Tôi vừa nghĩ lại: “Chư Phật Bồ-tát có oai đức lớn khó thể khuấy phá. Tôi nếu qua đó hoặc sẽ tự thất bại, chẳng bằng tự ở nơi cung điện này. Tôi nghĩ như vậy rồi, liền được giải thoát năm chỗ bị trói.

- Cũng vậy, tất cả phàm phu vì ức tưởng phân biệt điên đảo chấp tướng nên có trói buộc, vì động niệm hí luận nên có trói buộc, vì thấy, nghe, hay, biết nên có trói buộc. Trong đây thật khôngtrói buộcgiải thoát. Vì sao? Các pháp không trói buộc vì vốn giải thoát; các pháp không giải thoát vì vốn không trói buộc. Tướng thường giải thoát không có ngu si, Như Lai dùng pháp môn này nói pháp, nếu có chúng sinh được biết nghĩa này, muốn cầu giải thoát, tâm siêng năng tinh tấn thì được giải thoát các sự trói buộc.

Bấy giờ, trong chúng ma có bảy trăm thiên nữ đem hương hoa, hương bột, hương xoa và các thứ chuỗi báu cõi trời rải lên bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô và nói: “Chúng tôi lúc nào sẽ được giải thoát cảnh giới ma?”

Bồ-tát đáp:

- Các cô nếu hay chẳng hoại sự trói buộc của ma thì được giải thoát. Sao gọi là chẳng hoại sự trói buộc của ma? Đó là sáu mươi hai kiến. Nếu người chẳng hoại các kiến này tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát.

Thiên nữ lại hỏi:

- Sao gọi là chẳng hoại các kiến mà được giải thoát?

- Các kiến vốn không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Nếu biết các kiến không có tướng đến đi tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Các kiến chẳng phải có chẳng phải không, nếu chẳng phân biệt có không tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Nếu không sở kiến, ấy là chính kiến. Như vậy chính kiến không chính, không tà. Nếu pháp không chính, không tà, không tác, không thọ tức là ở ngay nơi sự trói buộc của ma mà được giải thoát. Các kiến này chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng chẳng phải chặng giữa. Các kiến như vậy cũng lại chẳng nghĩ tưởng thì ở ngay nơi sự trói buộc của ma được giải thoát.

Bảy trăm thiên nữ nghe nói pháp này liền đắc thuận nhẫn, và nói:

- Chúng tôi cũng ở trong cảnh giới ma hạnh không bị ô nhiễm, độ tất cả những người bị ma trói buộc.

Bấy giờ, bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô nói với ác ma:

- Các quyến thuộc của ngươi đã phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ông phải làm gì?

Ác ma đáp:

- Tôi bị trói năm chỗ, chẳng biết phải làm gì?

- Người phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác thì sẽ được giải thoát sự trói buộc này.

Bấy giờ, thiên nữ xót thương ác ma nên đều nói:

- Ông nên phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, chớ nên ở chỗ an ổn mà sinh ra ý tưởng sợ hãi, chớ nên ở chỗ giải thoát mà sinh ra ý tưởng trói buộc.

Bấy giờ, ác ma sinh tâm dua dối nói:

- Nếu các ngươi lìa bỏ tâm Bồ-đề, ta sẽ phát tâm.

Khi ấy các thiên nữ dùng sức phương tiện, mà nói với ma:

- Chúng tôi đều đã lìa bỏ tâm này, ông hãy phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác đi! Nếu một bồ-tát phát tâm Bồ-đề thì tất cả bồ-tát cũng đồng một tâm này. Vì sao? Vì tâm không sai khác, đối với chúng sinh, tâm đều bình đẳng.

Bấy giờ, ác ma nói với bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô:

- Tôi nay sẽ phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, do thiện căn này khiến tôi được giải thoát sự trói buộc.

Nói lời này xong, ác ma liền tự thấy thân được giải thoát sự trói buộc

Lúc ấy, bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô dùng sức thần thông tịnh diệu chiếu sáng lớn, hiện thân tịnh diệu chiếu vào cung ma. Ma tự thấy thân không có oai quang giống như đống mực.

Lúc ấy, trong chúng ma có hai trăm thiên nữ say đắm dâm dục thấy bồ-tát này sắc thân xinh đẹp sinh tâm đắm nhiễm đều nói:

- Người này nếu cùng chúng tôi hành dâm thì chúng tôi đều sẽ thuận theo lời dạy của người.

Lúc ấy, bồ-tát này biết các thiên nữ túc duyên đáng độ, liền hóa làm hai trăm thiên tử hình sắc đẹp đẽ, trang nghiêm như thân trước không khác. Lại hóa làm hai trăm bảo đài đẹp hơn cung ma. Các thiên nữ này đều tự thấy mình ở trong bảo đài, mỗi cô đều tự cho rằng mình cùng bồ-tát này vui chơi. Sở nguyện được thỏa ý dâm dục dứt, các cô đều sinh lòng rất yêu kính bồ-tát. Bồ-tát liền tùy theo chỗ đáng độ mà thuyết pháp, các cô đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Bấy giờ, Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô nói với ác ma:

- Ngươi nên đến chỗ Phật.

Ác ma nghĩ rằng: “Ta đã được cởi trói, nên đến chỗ Phật để khuấy phá Phật thuyết pháp”.

Bấy giờ ác maquyến thuộc vây quanh đi đến chỗ Phật nói:

- Thế Tôn! Đừng nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này nữa. Vì sao? Vì nói tam-muội này thân tôi lập tức bị trói buộc năm chỗ. Cúi xin Như Lai hãy nói việc khác.

Bấy giờ, bồ-tát Kiên Ý nói với ác ma:

- Ai cởi trói cho ông?

Ma đáp:

- Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô cởi trói cho tôi.

- Ngươi hứa việc gì mà được cởi trói?

- Tôi hứa phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

- Nay ác ma này vì muốn được cởi tróiphát tâm Bồ-đề nên chẳng phải là ý thanh tịnh. Cũng vậy, này Kiên Ý! Sau khi ta diệt độ, năm trăm năm sau có nhiều tỳ-kheo vì lợi dưỡng nên phát tâm Bồ-đề, chẳng phải là ý thanh tịnh.

Này Kiên Ý! Ông xem oai thần Phật pháp, thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di này dùng tâm khinh thường giỡn cợt, tâm tham lợi dưỡng, tâm chạy theo người khác, nghe tam- muội này mà phát tâm Bồ-đề. Ta đều biết tâm này được làm nhân duyên với Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, hà huống nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này hay dùng tâm thanh tịnh phát Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, phải biết người này ở trong Phật pháp đã được quyết định.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Nay ác ma này nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội vì muốn được cởi trói nên phát tâm Bồ-đề cũng được đầy đủ nhân duyên Phật pháp chăng?

Phật nói:

- Đúng như lời ông nói, ác manhân duyên phước đức của tam-muội này và nhân duyên phát Bồ-đề tâm, ở đời vị lai được xả bỏ tất cả việc ma, hạnh ma, tâm dua dối của ma, việc suy não của ma. Từ nay về sau dần dần sẽ được sức Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thành tựu Phật đạo.

Bồ-tát Kiên Ý nói với ác ma:

- Đức Như Lai hôm nay đã thọ ký cho ngươi.

Ma nói:

- Thiện nam tử! Tôi nay chẳng dùng tâm thanh tịnh phát Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, cớ sao Như Lai thọ ký cho tôi. Như Phật có nói: “Từ tâm có nghiệp, từ nghiệp có báo. Tôi tự không có tâm cầu đạo Bồ-đề, cớ sao Như Lai thọ ký cho tôi?”

Bấy giờ, Phật muốn dứt nghi cho chúng hội nên bảo Kiên Ý:

- Bồ-tát được thọ ký có bốn hạng: Có người chưa phát tâm mà được thọ ký, có người vừa phát tâm liền được thọ ký, có người được bí mật thọ ký, có người được vô sinh pháp nhẫn hiện tiền được thọ ký. Chỉ có Như Lai mới biết việc này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều chẳng thể biết.

Này Kiên Ý! Thế nào là người chưa phát tâm mà được thọ ký? Hoặc có chúng sinh qua lại trong năm đường hoặc tại địa ngục, hoặc tại súc sinh, hoặc tại ngạ quỷ, hoặc tại thiên thượng, hoặc tại nhân gian, các căn bén nhạy ưa thích pháp lớn (Đại thừa). Phật biết người này qua ngần ấy trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp sẽ phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Lại trong ngần ấy trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp hành Bồ-tát đạo, cúng dường ngần ấy trăm nghìn muôn ức na-do-tha Phật giáo hóa ngần ấy trăm nghìn muôn ức vô lượng chúng sinh khiến trụ Bồ-đề. Lại qua ngần ấy trăm nghìn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính giác, danh hiệu như vậy, cõi nước như vậy, số chúng Thanh văn thọ mạng như vậy. Sau khi diệt độ pháp trụ số năm như vậy.

Phật bảo Kiên Ý:

- Như Lai đều biết việc này và còn hơn thế nữa, ấy gọi là chưa phát tâm mà được thọ ký.

Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp đến trước Phật bạch:

- Từ nay về sau, chúng con nên đối với tất cả chúng sinh tưởng như Thế Tôn. Vì sao? Chúng con không có trí huệ như thế. Những chúng sinh nào có căn Bồ-tát, những chúng sinh nào không có căn Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Vì chúng con chẳng biết việc như thế, nên hoặc sinh tâm khinh mạn đối với chúng sinh, ắt làm tổn thương mình.

Phật nói:

- Lành thay! Lành thay! Ca-diếp! Lời này rất hay, vì lý do này nên trong kinh ta nói mọi người chẳng nên đánh giá căn tính chúng sinh. Vì sao? Nếu đánh giá không đúng căn tính chúng sinh ắt làm tổn thương mình. Chỉ có Như Lai mới đánh giá đúng căn tính chúng sinh. Do nhân duyên này nên các thanh văn và bồ-tát phải tưởng chúng sinh như Phật.

Người vừa phát tâm xong liền được thọ ký nghĩa là hoặc tự có người từ lâu đã trồng cội đức tu tập hạnh lành, tâm siêng năng tinh tấn, các căn linh lợi ưa thích đại pháp, có tâm đại bi, khắp vì chúng sinh cầu đạo giải thoát. Người này phát tâm liền trụ bậc Bất thối chuyển nhập bồ-tát vị vào số quyết định vượt qua tám nạn. Những người như thế lúc vừa phát tâm, chư Phật liền thọ ký cho Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, danh hiệu như vậy, cõi nước như vậy, thọ mạng như vậy. Những người như thế, Như Lai biết tâm mà thọ ký cho, ấy gọi là vừa phát tâm liền được thọ ký.

Bí mật thọ ký là tự có bồ-tát chưa được thọ kýthường tinh tấn, cầu Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ưa thích bố thí, thích bố thí tất cả, nhận pháp kiên cố, trì giới chẳng bỏ, pháp hạnh trang nghiêm có sức nhẫn lớn, tâm bình đẳng đối với chúng sinh, siêng năng tinh tấn cầu các pháp lành, thân tâm chẳng lười như cứu lửa cháy đầu. Hành niệm an ổn đắc được tứ thiền, thích cầu trí huệ hành Phật-bồ-đề. Trải qua thời gian lâu xa tu hành lục độ có tướng thành Phật. Lúc ấy các bồ-tát khác và Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… đều nghĩ rằng: “Bồ-tát siêng năng tinh tấn như thế thật là hiếm có, chừng nào sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, danh hiệu thế nào? Cõi nước tên gì? Số chúng Thanh văn nhiều ít ra sao? Phật vì dứt nghi cho chúng sinhthọ ký khiến cho khắp chúng hội đều được nghe biết mà chỉ một mình bồ-tát này chẳng được nghe là vì thần lực của Phật khiến cho tất cả chúng biết bồ-tát này thành Phật, danh hiệu, cõi nước như vậy, số chúng Thanh văn nhiều ít như vậy. Lúc ấy, những điều chúng nghi đều được giải quyết và họ đối với vị bồ-tát này tưởng là Thế Tôn, nhưng vị bồ-tát này chẳng thể tự biết mình đã được thọ ký hay chưa được thọ ký. Đó là Bồ-tát được bí mật thọ ký.

Hiện tiền thọ ký là có bồ-tát từ lâu tu tập thiện căn không ai chẳng thấy, thường tu phạm hạnh, quán vô ngã, không, đối với tất cả pháp đắc vô sinh nhẫn. Phật biết người này công đức trí huệ đều đã đầy đủ nên ở trong đại chúng trời, người, ma, Phạm, sa-môn, bà-la-môn hiện tiền thọ ký, nói lời này: “Thiện nam tử! Ông qua ngần ấy trăm nghìn muôn ức kiếp sẽ được thành Phật, danh hiệu như vậy, cõi nước như vậy, số chúng Thanh văn, thọ mạng như vậy. Lúc ấy vô số người bắt chước theo người này mà phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Người này ở trước Phật được thọ ký rồi, thân bay lên hư không cao bảy cây đa-la. Này Kiên Ý! Đó là hiện tiền thọ ký thứ tư.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

- Nay trong hội này có bồ-tát nào vì bốn việc này được thọ ký chăng?

Phật đáp:

- Có.

- Bạch Thế Tôn! Ai vậy?

- Bồ-tát Sư Tử Hống Vương này ưa muốn làm cư sĩ là người chưa phát tâm mà được thọ ký; vô số bồ-tát ở thế giới phương khác cũng như vậy, chưa phát tâm mà được thọ ký.

Lại có bồ-tát Tịch Diệt, bồ-tát Đại Đức Pháp vương tử, bồ-tát Văn-thù- sư-lợi Pháp vương tử, vô lượng các bồ-tát như vậy lúc vừa phát tâm liền được thọ ký và đều trụ nơi bậc Bất thoái chuyển.

Trong đây còn có bồ-tát Trí Dũng, bồ-tát Ích Ý, vô lượng các bồ-tát như vậy bí mật được thọ ký.

Này Kiên Ý! Ta và Di-lặc cùng một nghìn vị bồ-tát ở Hiền kiếp đều đắc vô sinh pháp nhẫn và được hiện tiền thọ ký.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

- Hy hữu! Thế Tôn! Việc làm của bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, thọ ký cũng chẳng thể nghĩ bàn tất cả Thanh văn và Bích-chi-phật còn chẳng thể biết, huống là chúng sinh khác.

Phật nói:

- Này Kiên Ý! Bồ-tát sở hành, sở phát tinh tấn, oai thần, thế lực chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, bồ-tát Ma Giới hạnh Bất Ô giáo hóa các thiên nữ khiến họ đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, các cô đều dùng hoa trời rải lên Phật và bạch rằng:

- Thế Tôn! Chúng con chẳng thích bí mật được thọ ký. Chúng con nguyện đắc vô sinh pháp nhẫn được hiện tiền thọ ký. Cúi xin Thế Tôn hôm nay thọ ký Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác cho chúng con.

Lúc ấy, Phật mỉm cười, miệng phóng ánh sáng màu đẹp chiếu các thế giới rồi quay về nhập vào đảnh.

Ngài A-nan bạch Phật:

- Thế Tôn! Nhân duyên gì ngài cười?

Phật bảo A-nan:

- Nay ông thấy hai trăm thiên nữ này chắp tay kính lễ Như Lai chăng?

- Bạch Thế Tôn! Đã thấy.

- Này A-nan! Các thiên nữ này đã từng ở chỗ năm trăm đức Phật thuở quá khứ trồng sâu thiện căn, từ nay trở đi sẽ còn cúng dường vô số các đức Phật, qua bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp rồi đều được thành Phật hiệu là Tịnh Vương. A-nan! Các thiên nữ này sau khi mạng chung được chuyển thân nữ, đều sinh lên trời Đâu-suất cúng dường phụng sự bồ-tát Di-lặc.

Bấy giờ, ác ma nghe các thiên nữ được thọ ký xong, bạch Phật:

- Thế Tôn! Nay tôi chẳng được tự tại đối với quyến thuộc của tôi vì họ được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, huống là những người nghe nào khác. Nếu người được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội liền được quyết định trụ trong Phật pháp.

Bấy giờ, thiên nữ dùng tâm không khiếp sợ, nói với ác ma:

- Ông chớ buồn rầu. Chúng tôi chẳng ra ngoài cảnh giới ông đâu. Vì sao? Vì ma giới như tức là Phật giới như. Ma giới như, Phật giới như không hai không khác. Chúng tôi chẳng lìa cái như này. Ma giới tướng tức là Phật giới tướng, ma giới pháp, Phật giới pháp không hai không khác. Chúng tôi đối với pháp này chẳng ra ngoài, chẳng vượt qua ma giới, cũng không có pháp quyết định có thể chỉ thị. Phật giới cũng không có pháp quyết định có thể chỉ thị. Ma giới Phật giới không hai, không khác. Chúng tôi đối với pháp tướng này chẳng ra ngoài, chẳng vượt qua. Thế nên phải biết tất cả các pháp khôngquyết định. Vì không quyết định nên không có quyến thuộc, không có chẳng phải quyến thuộc.

Bấy giờ, ác ma lo buồn khổ não muốn trở về trời. Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô nói với ác ma:

- Ngươi muốn đi đâu?

Ma đáp:

- Tôi nay muốn trở về cung điện của tôi.

Bồ-tát nói:

- Chẳng lìa chúng này tức là cung điện của ngươi.

Bấy giờ, ác ma liền tự thấy thân ở trong cung điện của mình.

Bồ-tát hỏi:

- Ngươi thấy những gì?

Ác ma đáp:

- Tôi tự thấy thân tôi ở trong cung điện của mình, vườn rừng ao đẹp là vật sở hữu của tôi.

- Ngươi nay nên đem dâng lên Như Lai.

- Dạ được!

Ác ma vừa nói lời này xong liền thấy Như Lai, thanh văn, bồ-tát, tất cả đại chúng đều ở trong đó nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.

Bấy giờ, ngài A-nan bạch Phật:

- Thế Tôn! Người bố thí, Phật thọ thực xong nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội và người bố thí, Phật thọ thực xong được thành Phật. Hai thí chủ này người nào được phước nhiều?

Phật nói:

- Này A-nan! Bố thí cho Phật ăn rồi, Phật thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, ăn rồi chuyển pháp luân, ăn rồi nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bố thí ba bữa ăn này phước không có sai khác. A-nan! Ta ở chỗ nào đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác phải biết chỗ đó là Kim cang, các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều ở trong đó được thành Phật đạo, tùy theo trụ xứ nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đều không sai khác và chỗ có người đọc tụng biên chép cũng lại như vậy.

Này A-nan! Bố thí thức ăn cho Phật ăn xong bắt đầu chuyển pháp luân, nếu có pháp sư được bố thí thức ăn rồi đọc tụng, diễn nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này. Hai loại bố thí này phước bằng nhau không có sai khác.

Lại nữa, này A-nan! Phật ở tinh xá dùng mười tám món thần thông biến hóa độ thoát chúng sinh, lại có người ở trong tinh xá đọc tụng diễn nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bố thí thức ăn cho Phật và người này, được phước không khác.

Bấy giờ, ngài A-nan nói với ác ma:

- Ngươi được lợi lớn, hay đem cung điện bố thí cho Phật trụ.

Ma nói:

- Đó là do ân lực của Bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô mà ra.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

- Phải chăng bồ-tát Ma Giới Hạnh Bất Ô trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội nên được thần lực tự tại như thế?

Phật đáp:

- Này Kiên Ý! Đúng như lời ông nói. Nay bồ-tát ấy trụ tam-muội này hay dùng thần lực tùy ý tự tại thị hiện tất cả hạnh kể cả hạnh ma mà có thể chẳng bị hạnh ma làm ô nhiễm, cùng các thiên nữ hiện tướng vui chơi mà thật chẳng thọ pháp ác dâm dục. Thiện nam tử ấy trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hiện vào cung ma mà thân chẳng rời hội Phật, hiện vào ma giới du hí vui chơi mà dùng Phật pháp giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát Kiên Ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Như Lai trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này có thể hiện bao nhiêu thần lực tự tại. Lành thay! Thế Tôn! Xin diễn nói chút ít.

Phật nói:

- Này Kiên Ý! Ta nay trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này ở nơi tam thiên đại thiên thế giới này. Trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức nhật nguyệt, trăm ức Tứ thiên vương xứ, trăm ức Đao-lợi thiên, Dạ-ma thiên, trăm ức Đâu-suất-đà thiên, trăm ức Hóa Lạc thiên, trăm ức Tha Hóa Tự Tại thiên, nhẫn đến trăm ức A-ca-nị-tra thiên, trăm ức Tu-di sơn vương, trăm ức đại hải, đó gọi là tam thiên đại thiên thế giới.

Này Kiên Ý! Ta trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội ở tam thiên đại thiên thế giới này hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành bố thí ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành trì giới ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành nhẫn nhục ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành tinh tấn ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành thiền ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện hành bát-nhã ba-la-mật, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện làm thần tiênngũ thông, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện ở cư gia, hoặc ở Tứ thiên hạ hiện làm Chuyển luân thánh vương, hoặc làm Thích-đề-hoàn-nhân, hoặc làm Phạm vương, hoặc làm Tứ thiên vương, hoặc làm Dạ-ma thiên vương, hoặc làm Đâu-suất-đà thiên vương, hoặc làm Hóa Lạc thiên Vương, hoặc làm Tha Hóa Tự Tại thiên vương, hoặc hiện trưởng giả, hoặc hiện cư sĩ, hoặc hiện tiểu vương, đại vương, hoặc làm sát-lợi, hoặc làm bà-la-môn, hoặc làm bồ-tát, hoặc ở tứ thiên hạ muốn từ Đâu-suất hạ sinh vào thế gian hoặc hiện nhập thai, hoặc hiện ở trong thai, hoặc hiện sắp sinh, hoặc hiện sinh xong đi bảy bước, giơ tay tự xưng: “Trên trời dưới trời chỉ có ta là tôn quý”, hoặc hiện ở trong cung với bọn thể nữ, hoặc hiện xuất gia, hoặc hiện khổ hạnh, hoặc hiện lấy cỏ trải tòa, hoặc hiện ngồi đạo tràng, hoặc hiện hàng ma, hoặc hiện thành Phật, hoặc hiện xem cây, hoặc hiện Thích Phạm thỉnh chuyển pháp luân, hoặc hiện xả thọ mạng, hoặc hiện nhập niết-bàn, hoặc hiện thiêu thân, hoặc hiện toàn thân xá lợi, hoặc hiện tán thân xá-lợi, hoặc hiện pháp sắp diệt, hoặc hiện pháp đã diệt, hoặc hiện thọ mạng vô lượng, hoặc hiện thọ mạng ngắn ngủi, hoặc hiện cõi nước không có danh tự ác đạo, hoặc hiện có các ác đạo, hoặc hiện Diêm-phù-đề thanh tịnh nghiêm sức như cung điện chư thiên hoặc hiện tệ ác, hoặc hiện thượng trung hạ. Này Kiên Ý! Đó đều là thần lực tự tại của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, bồ-tát thị hiện nhập niết-bàn chẳng rốt ráo diệt, mà ở tam thiên đại thiên thế giới hay hiện thần lực tự tại như vậy, thị hiện các việc trang nghiêm như vậy. Này Kiên Ý! Ông hãy xem Như Lai ở trong tứ thiên hạ này chuyển pháp luân, hoặc ở Diêm-phù-đề khác chưa thành Phật đạo, hoặc ở Diêm-phù-đề hiện nhập diệt độ, đó gọi là pháp môn sở nhập Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.

Bấy giờ, các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v…, các bồ-tát, đại đệ tử trong hội đều nghĩ rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chỉ có thể ở trong tam thiên đại thiên thế giới này có thần lực ấy hay ở thế giới khác ngài cũng có thần lực ấy”.

Lúc ấy, ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết ý chúng hội, muốn dứt trừ điều nghi này, nên bạch Phật:

- Thế Tôn! Con du hành đến các cõi nước Phật phía trên thế giới này qua sáu mươi Hằng hà sa cõi nước có thế giới Phật tên là Nhất Đăng Minh Phật, ở nơi đó vì người thuyết pháp, con đến chỗ đó đầu mặt đảnh lễ, hỏi rằng: “Thế Tôn danh hiệu là chi? Chúng con phải phụng trì danh hiệu Phật như thế nào? Đức Phật ấy đáp: Ông đến hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni, ngài sẽ đáp cho ông”.

Bạch Thế Tôn! Cõi nước Phật kia công đức trang nghiêm nói suốt một kiếp cũng chẳng thể hết; còn hơn cõi này, cõi nước kia không có danh từ thanh văn, bích-chi-phật, chỉ có các bồ-tát tăng thường thuyết pháp luân bất thoái chuyển. Cúi xin Thế Tôn nói danh hiệu của Đức Phật đang thuyết pháp ở cõi nước Nhất Đăng Minh.

Bấy giờ, Phật bảo Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:

- Các ông lắng nghe, chớ có lo sợ mà sinh nghi hối. Vì sao? Vì thần lực chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Phật thuyết pháp ở cõi nước Nhất Đăng Minh kia hiệu là Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương.

Đức Phật Thị Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương ở cõi nước Nhất Đăng Minh kia là thân ta ở cõi nước kia hiện thần lực Phật. Ta ở cõi nước kia thuyết pháp luân bất thoái chuyển, là tịnh độ của ta tu ở đời trước.

Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông phải biết ta ở trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha cõi nước đều có thần lực, tất cả thanh văn, bích-chi-phật đều chẳng thể biết. Này Văn-thù-sư-lợi! Đây đều là thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Bồ-tát thường ở trong vô lượng thế giới thị hiện thần biến, ở nơi tam-muội này mà chẳng động chuyển. Này Văn-thù-sư-lợi! Ví như nhật nguyệt từ nơi cung điện bắt đầu chẳng di động mà hiện tất cả thành ấp xóm làng. Cũng vậy, Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội đầu tiên chẳng di động mà hay thị hiện thân khắp vô lượng thế giới, tùy theo sở thích của mọi ngườithuyết pháp.

Bấy giờ, chúng hội được chưa từng có, đều vô cùng vui mừng hớn hở, chắp tay cung kính, và các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… dùng hoa chân châu, hoa đẹp nhiều màu, hương bột, hương xoa rải lên đức Phật, trỗi các thứ kỹ nhạc cõi Trời cúng dường Như Lai và các đệ tử, mỗi người cũng đều cởi thượng y dâng lên Phật và các bồ-tát, đem hoa đẹp vi diệu to như Tu-di, và các tạp hương, hương bột, hương xoa, chuỗi báu anh lạc rải lên đức Phật, đều nói:

- Dạ thưa Thế Tôn! Nếu có người nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chỗ nào thì chỗ đất đó là Kim cang. Nếu người được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội rồi tin nhận, đọc tụng, vì người diễn nói mà chẳng kinh chẳng sợ, phải biết người này cũng là kim cang thành tựu nhẫn bất hoại, trụ sâu nơi niềm tin, được chư Phật hộ niệm, trồng sâu thiện căn được thiện lợi lớn, hàng phục ma oán, dứt các đường ác, được thiện tri thức thủ hộ.

Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, nếu có chúng sinh nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này liền hay tin nhận, đọc tụng, hiểu nghĩa, vì người diễn nói, tu hành đúng như lời nói, phải biết người này được trụ Phật pháp quyết định chẳng lui sụt.

Phật nói:

- Đúng thế, đúng thế! Đúng như lời ông nói. Nếu người chẳng trồng sâu thiện căn thì nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội chẳng thể tin nhận; ít có chúng sinh nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội có thể tin nhận, mà phần đông chúng sinh chẳng thể tin nhận. Này thiện nam tử! Người có bốn pháp nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này có thể tin nhận được. Những gì là bốn? Một là đã từng ở nơi chư Phật quá khứ nghe tam-muội này. Hai là được thiện tri thức hộ niệm nên rất mến Phật pháp. Ba là thiện căn sâu dày nên ưa thích đại pháp. Bốn là thân tự được chứng pháp sâu Đại thừa. Người có bốn pháp này ắt hay tin nhận tam-muội này.

Này thiện nam tử! Lại có người mãn nguyện A-la-hán và người đầy đủ chính kiến, người tín hạnh, kiến hạnh. Những người này vì tin thuận lời Như Lai nên tin tam-muội này nhưng bản thân chẳng chứng. Vì sao? Vì tam-muội này, tất cả thanh văn, bích-chi-phật đều chẳng thể thông đạt, huống là chúng sinh khác.

Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:

- Thế Tôn! Ví như có người bị mù từ lúc sơ sinh trong mộng được mắt thấy các màu sắc, tâm rất vui mừng, liền ở trong mộng cùng với người có mắt cùng ở chung cùng chuyện trò. Người này tỉnh dậy, chẳng còn thấy sắc. Chúng con cũng vậy, lúc chưa nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội trong lòng vui mừng cho rằng được thiên nhãn, cùng các bồ-tát cùng ở chung, cùng luận bàn nghĩa lý.

Bạch Đức Thế Tôn! Nay con từ Phật được nghe tam-muội này chẳng biết việc ấy, như người mù từ thuở sơ sinh chẳng thể được biết pháp sở hành của chư Phật, bồ-tát. Chúng con từ nay về sau tự xem thân mình như kẻ mù từ thuở sơ sinh đối với pháp sâu mầu của Phật không có trí huệ, chẳng biết chẳng thấy việc làm của Thế Tôn. Chúng con từ nay về sau biết các bồ-tát thật đắc thiên nhãn có được các trí huệ sâu xa như vậy.

Thế Tôn! Nếu người không có tâm tát-bà-nhã, đâu dám tự cho rằng: Tôi là người trí, tôi là phước điền.

Phật nói:

- Đúng thế, đúng thế. Này Ca-diếp! Đúng như lời ông nói. Các trí huệ sâu của hàng bồ-tát được, thanh văn, bích-chi-phật chẳng bì kịp.

Lúc ngài Ma-ha Ca-diếp nói lời này, tám nghìn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:

- Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nói là phước điền đó. Vậy thế nào là phước điền?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

- Có mười pháp hạnh gọi là phước điền. Những gì là mười? Trụ môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện mà chẳng vào pháp vị. Thấy biết tứ đế mà chẳng chứng đạo quả. Hành bát giải thoát mà chẳng bỏ hạnh Bồ-tát. Hay khởi tam minh mà đi trong ba cõi. Hay hiện hình sắc oai nghi thanh văn mà chẳng theo âm thanh từ người khác cầu pháp. Hiện hình sắc oai nghi bích-chi-phật mà dùng vô ngại biện tài thuyết pháp. Thường tại thiền định mà hay hiện hành tất cả các hạnh. Chẳng lìa chính đạo mà hiện nhập tà đạo. Rất tham nhiễm ái dục mà lìa các dục, tất cả phiền não. Nhập vào niết-bàn mà đối với sinh tử chẳng hoại chẳng bỏ. Người nào có mười pháp này, phải biết người đó là chân thật phước đức.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý hỏi Tu-bồ-đề:

- Thưa trưởng lão Tu-bồ-đề! Thế Tôn nói ngài là đệ nhất phước điền, ngài có được mười pháp này chăng?

Tu-bồ-đề nói:

- Tôi đối với pháp này không có một huống là có mười.

Kiên Ý hỏi:

- Vì sao ông được gọi là đệ nhất phước điền?

Tu-bồ-đề đáp:

- Tôi chẳng phải là đệ nhất phước điền trong hàng chư Phật, Bồ-tát. Phật nói tôi là đệ nhất phước điền trong hàng Thanh Văn, Bích-chi-phật.

Này Kiên Ý! Ví như vua nhỏ ở biên địa cũng được gọi là vua, nếu Chuyển luân thánh vương đến nơi biên địa thì các vua nhỏ chẳng còn được gọi là vua. Lúc ấy chỉ có Chuyển luân thánh vươngThánh vương oai đức thù diệu hơn vậy.

- Này Kiên Ý! Nơi quốc độ, thành ấp, xóm làng không có bồ-tát, tôi ở nơi đó được gọi là phước điền. Nếu chỗ có Phật, có Đại bồ-tát thì tôi ở nơi đó chẳng được gọi là phước điền. Vì các bồ-tát có tâm tát-bà-nhã, thế nên hơn tôi.

Bấy giờ, Phật khen ngài Tu-bồ-đề:

- Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói. Ấy là lời nói của vị đại đệ tử không có tăng thượng mạn.

Bồ-tát Kiên Ý lại hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử:

- Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nói là đa văn. Vậy thế nào là đa văn?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

- Nếu người nghe pháp một câu liền hiểu nghìn muôn ức nghĩa trong đó, trải qua số kiếp trăm nghìn muôn ức phô diễn, giải nói, trí huệ biện tài không thể cùng tận, ấy là đa văn.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu nghe lời thuyết pháp của vô lượng chư Phật ở mười phương mà đều hay thọ trì, không có một câu nào mà trước kia chẳng được nghe. Hễ có nghe lời nào cũng đều là lời trước kia đã được nghe, hay thọ trì, không quên các pháp đã nghe, vì chúng sinh thuyết pháp mà không có chúng sinh nghe nhận, thân mình cùng chúng sinh và pháp sở thuyết không có sai biệt, ấy gọi là đa văn.

Bấy giờ, trong hội có bồ-tát thiên tử tên Tịnh Nguyệt Tạng suy nghĩ rằng: “Phật nói ngài A-nan là đa văn đệ nhất. Sự đa văn như ngài Văn-thù vừa nói, A-nan ngày nay có được như thế chăng? Nghĩ như vậy rồi, bèn hỏi A-nan:

- Đức Như Lai nói ngài là bậc đa văn đệ nhất. Vậy sự đa văn của ngài có như ngài Văn-thù-sư-lợi nói chăng?

Ngài A-nan đáp:

- Sự đa văn như ngài Văn-thù-sư-lợi nói đó, tôi không có.

Tịnh Nguyệt Tạng hỏi:

- Thế tại sao Như Lai thường nói ngài là người đa văn bậc nhất?

Ngài A-nan đáp:

- Các đệ tử Phật theo âm thanhđược giải thoát, trong hàng người đó, nói tôi đệ nhất, chứ chẳng phải tôi đệ nhất trong hàng bồ-tát có biển trí vô lượng, đại huệ vô đẳng, biện tài vô ngại.

- Này thiên tử! Ví như nhờ có ánh sáng nhật nguyệt mà người Diêm-phù-đề thấy các hình sắc để làm các việc. Tôi cũng như vậy, nhờ ánh sáng trí huệ Như Lai mà được thọ trì pháp. Tôi ở trong đó không có năng lực, phải biết đều là thần lực Như Lai.

Đức Phật khen ngài A-nan;

- Lành thay, lành thay! Đúng như lời ông nói, ông thọ trì tụng niệm các pháp đều là nhờ thần lực Như Lai.

Bấy giờ, Phật bảo Tịnh Nguyệt Tạng:

- Các pháp A-nan thọ trì rất ít, phần chưa được thọ trì còn vô lượng vô biên. Này thiên tử! Các pháp ta đắc nơi đạo tràng, trăm nghìn ức phần chẳng nói được một phần. Các pháp ta nói, trong ấy A-nan trăm nghìn ức phần chẳng trì được một.

- Này Thiên tử! Như Lai chỉ trong một ngày một đêm thuyết pháp cho các thiên tử bồ-tát trong hàng ngũ Thích, Phạm vương, Hộ Thế thiên vương, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, v.v… trong thế giới mười phương. Ta dùng sức trí huệ làm kệ tụng, nói tu-đa-la, nhân duyên, thí dụ, các ba-la-mật của chúng sinh tu hành, và nói Thanh Văn, Bích-chi-phật thừa, Phật vô thượng thừa, pháp nhiếp Đại thừa, chê trách sinh tử, ca ngợi niết-bàn. Giả sử chúng sinh Diêm-phù-đề thành tựu đa văn đều như A-nan ở trong trăm nghìn kiếp cũng chẳng thể thọ trì. Này Thiên tử! Do nhân duyên này nên biết các pháp Như Lai nói vô lượng vô biên, A-nan thọ trì được rất là ít.

Bấy giờ, Thiên tử Tịnh Nguyệt Tạng liền đem mười muôn lọng hoa bằng bảy báu dâng lên Như Lai. Lọng ấy tức thời trụ khắp trên hư không che chúng sinh khiến thân họ đều trở thành màu vàng. Dâng lọng xong rồi, thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nguyện đem phước này khiến cho chúng sinh được biện tài thuyết pháp sẽ như Thế Tôn, và hay thọ trì pháp như ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử.

Lúc ấy, Phật biết bồ-tát thiên tử này ưa thích sâu xa Phật đạo, bèn thọ ký Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, nên nói:

- Nay thiên tử này qua bốn trăm bốn mươi muôn kiếp sẽ được thành Phật hiệu Nhất Bảo Cái, cõi nước tên Nhất Thiết Chúng Bảo trang Nghiêm.

Lúc nói pháp này, có hai trăm vị bồ-tát sinh tâm biếng trễ cho rằng pháp của chư Phật Thế Tôn rất sâu, Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác như vậy khó đắc, chúng ta chẳng thể đầy đủ việc ấy, chẳng bằng dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn. Vì sao? Phật nói bồ-tát nếu có thoái chuyển hoặc làm Bích-chi-phật, hoặc làm Thanh văn.

Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử biết hai trăm vị bồ-tát này có tâm biếng trễ thoái lui, Ngài muốn phát khởi cho họ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, và cũng vì muốn giáo hóa Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, a-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già v.v… trong hội, nên bạch Phật:

- Thế Tôn! Con nhớ kiếp quá khứ tên Chiếu Minh, con ở trong đó ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn.

Bấy giờ tất cả chúng hội tâm đều sinh nghi: “Nếu nhập niết-bàn thì chẳng nên còn trở lại sinh tử nối tiếp. Hôm nay ngài Văn-thù-sư-lợi cớ sao lại nói lời này: “Bạch Thế Tôn! Con nhớ đời quá khứ kiếp tên Chiếu Minh. Con ở trong ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn”. Việc ấy thế nào?”

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất thừa oai thần của Phật, bạch Phật:

- Thế Tôn! Nếu người đã được nhập niết-bàn chẳng nên còn có sinh tử nối tiếp. Tại sao ngài Văn-thù-sư-lợi nhập niết-bàn rồi, còn sinh trở lại.

Phật nói:

- Ông nên hỏi Văn-thù-sư-lợi, ông ấy sẽ đáp cho ông.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi:

- Nếu người đã được nhập niết-bàn chẳng còn nối tiếp sinh tử trong các cõi. Hôm nay tại sao ngài nói lời này: “Thế Tôn! Con nhớ trong kiếp quá khứ tên Chiếu Minh, ba trăm sáu mươi ức đời dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn”. Nghĩa này thế nào?

Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp:

- Như Lai hiện tại là người biết tất cả, là người thấy tất cả, là người nói chân thật, là người chẳng dối trá, trời người ở thế gian không thể dối Ngài được. Điều của tôi nói, Phật tự chứng biết.

Này Xá-lợi-phất! Lúc ấy, trong kiếp Chiếu Minh có Phật xuất thế hiệu là Phất-sa làm lợi ích cho các trời người xong, ngài nhập niết-bàn. Sau khi Phật diệt độ, pháp trụ mười muôn năm. Sau khi pháp diệt, chúng sinh lúc ấy đối với Bích-chi-phật thừa có nhân duyên được độ. Giả sử trăm nghìn ức Phật vì họ thuyết pháp họ cũng chẳng tin chẳng nhận, mà chỉ đều có thể dùng thân, oai nghi, pháp Bích-chi-phật mà được độ thoát. Các chúng sinh ấy đều cùng một chí cầu đạo Bích-chi-phật, bấy giờ không có Bích-chi-phật ra đời, các chúng sinh ấy không có chỗ để làm nhân duyên gieo trồng thiện căn. Lúc ấy, tôi vì giáo hóa họ nên tự xưng mình là Bích-chi-phật, các cõi nước, thành ấp, làng xóm đều biết tôi là Bích-chi-phật. Lúc tôi hiện hình sắc, oai nghi Bích-chi-phật, thì các chúng sinh ấy sinh tâm cung kính đều đem thức uống ăn cúng dường tôi. Tôi thọ thực rồi, quán bổn duyên của họ đáng nghe pháp gì thì giảng giải cho họ nghe pháp ấy; giảng nói xong, thân tôi bay lên hư không như con nhạn chúa. Lúc ấy chúng sinh đều rất hoan hỷ dùng tâm cung kính cúi đầu đảnh lễ tôi và nói: “Nguyện chúng con vào đời vị lai đều được pháp lợi như Ngài hiện nay”.

Này Xá-lợi-phất! Do nhân duyên này thành tựu vô lượng vô số chúng sinh khiến họ trồng thiện căn. Lúc đó tôi quán sát biết những người cúng dường tôi sinh tâm biếng trễ, tôi liền nói: “Giờ tôi nhập niết-bàn đến”. Trăm nghìn chúng sinh nghe lời này rồi đều mang hoa hương, tạp hương, tô-du đến chỗ tôi. Lúc ấy tôi nhập diệt tận định, do vì bổn nguyện nên chẳng rốt ráo diệt. Các chúng sinh ấy đều cho rằng tôi mạng chung. Vì cúng dường tôi nên dùng củi thơm thiêu thân tôi, nói rằng tôi thật diệt. Lúc ấy tôi lại đến thành lớn của nước khác tự xưng tôi là Bích-chi-phật, trong ấy chúng sinh cũng đem thức uống ăn đến cúng dường tôi. Tôi ở nơi đó thị hiện nhập niết-bàn, họ cũng nói tôi diệt và đều đến cúng dường cùng thiêu thân tôi. Này Xá-lợi-phất! Như vậy, lúc ấy mãn một tiểu kiếp tôi trải qua ba trăm sáu mươi ức đời làm thân Bích-chi-phật thị hiện nhập niết-bàn, ở trong mỗi thành lớn, đều dùng Bích-chi-phật thừa độ thoát ba mươi sáu ức chúng sinh. Này Xá-lợi-phất! Bồ-tát như vậy dùng Bích-chi-phật thừa nhập vào niết-bàn mà chẳng diệt hẳn.

Lúc ngài Văn-thù-sư-lợi nói lời này, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng soi khắp, nghìn ức chư Thiên cúng dường Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, mưa các hoa trời đều nói: “Thật là hy hữu! Chúng con ngày nay được thiện lợi lớn là được thấy Phật Thế Tôn và ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, lại được nghe nói về pháp Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này. Thế Tôn! Ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thành tựu pháp chưa từng có như thế. Ngài trụ tam-muội nào có khả năng hiện pháp chưa từng có như thế?

 

Phật bảo chư Thiên tử:

- Văn-thù-sư-lợi trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội hay làm được việc khó khăn và hy hữu như thế! Bồ-tát trụ tam-muội này vì người làm tín hạnh mà chẳng theo người khác mà tin, cũng làm pháp hạnh mà đối với pháp tướng chuyển pháp luân chẳng lui chẳng mất, cũng làm tám người: ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp vì người bát tàhành đạo làm Tu-đà-hoàn, vì chúng sinh bị sinh tử cuốn trôi mà chẳng nhập pháp vị làm Tư-đà-hàm; khắp hiện thân ở các thế gian làm A-na-hàm; cũng lại giáo hóa chúng sinh mà làm A-la-hán; cũng thường tinh tấn cầu học Phật pháp, cũng làm Thanh văn, dùng biện tài vô ngại vì người thuyết pháp mà làm Bích-chi-phật; vì muốn giáo hóa chúng sinh có duyên nên thị hiện nhập niết-bàn, và do sức của tam-muội nên sinh trở lại.

Này các thiên tử! Bồ-tát trụ Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này đều có khả năng làm khắp các hạnh Hiền Thánh, cũng theo địa vị ấy thuyết pháp mà chẳng trụ trong đó.

Chư thiên nghe Phật nói nghĩa như thế, thảy đều rơi lệ nói rằng:

- Thế Tôn! Nếu người đã vào ngôi vị Thanh văn, Bích-chi-phật thì mất hẳn Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.

Thế Tôn! Mọi người thà làm tội nặng ngũ nghịch mà được nghe nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chứ chẳng vào pháp vị làm lậu tận A-la-hán. Vì sao? Vì người làm tội ngũ nghịch nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác rồi, tuy do tội ngũ nghịch bị đọa địa ngục, nhưng nhờ nhân duyên thiện căn nghe tam-muội này mà trở lại được thành Phật.

Thế Tôn! Vị lậu tận A-la-hán giống như đồ bể, chẳng thể kham nhận lãnh thọ tam-muội này. Thế Tôn! Ví như có người bố thí tô-du, mật, có nhiều người mang các thứ đồ đựng. Trong đó có một người không cẩn thận làm bể đồ đựng mang theo, vì thế tuy đến chỗ bố thí tô-du, mật mà không được lợi ích, chỉ được tự no, chứ không thể mang đi đem cho người khác được. Trong đó, người mang đồ đựng bền chắc nguyên vẹn đã được tự no, cũng có thể mang đầy bình đem bố thí cho người khác. Tô-du, mật là chính pháp của Phật. Người mang đồ bể chỉ tự được đủ, chẳng thể đem cho người khác, tức là thanh văn và bích-chi-phật. Người mang đồ nguyên vẹn tức là bồ-tát, chính mình tự được no đủ cũng hay đem cho tất cả chúng sinh.

Khi ấy, hai trăm thiên tử tâm muốn thoái chuyển Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác nghe các thiên tử nói lời này rồi và nghe công đức thế lực chẳng thể nghĩ bàn của Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, dùng tâm sâu xa phát lại Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, chẳng còn theo tâm thoái chuyển trước đó, và bạch Phật rằng:

- Chúng con dù cho bị nguy hại mất mạng cũng chẳng bỏ tâm này và cũng chẳng bao giờ bỏ tất cả chúng sinh.

Thế Tôn! Chỉ nguyện chúng con được nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, nhân duyên thiện căn sẽ được mười sức của bồ-tát. Những gì là mười? Đối với tâm bồ-đề được sức kiên cố. Đối với Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn được sức tín sâu. Ở trong đa văn được sức chẳng quên. Qua lại sinh tử được sức không mỏi mệt. Đối với chúng sinh, được sức đại bi bền bỉ. Ở trong bố thí được sức buông xả vững chắc. Ở trong trì giới được sức chẳng hư hỏng. Ở trong nhẫn nhục được sức chịu đựng dẻo dai. Ma chẳng thể phá hoại, được sức trí huệ. Đối với các pháp sâu mầu, được sức tín nhạo.

Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

- Nếu có chúng sinh ngay nơi hiện tại hoặc sau khi ta diệt độ, nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này hay tín nhạo, phải biết người này đều được mười sức kể trên của bồ-tát.

Bấy giờ, trong hội có bồ-tát tên Danh Ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Nếu người muốn được phước, phải nên cúng dường Phật. Người muốn được huệ phải siêng năng đa văn. Người muốn sinh vào chỗ tốt phải siêng năng trì giới. Người muốn giàu có lớn, phải nên bố thí. Người muốn thân xinh đẹp phải tu nhẫn nhục. Người muốn được biện tài phải kính sư trưởng. Người muốn đắc đà-la-ni phải lìa tăng-thượng-mạn. Người muốn được trí huệ phải tu chính ức niệm. Người muốn được vui, phải bỏ tất cả điều ác. Người muốn lợi ích chúng sinh phải phát tâm Bồ-đề. Người muốn được tiếng nói hay phải tu thật ngữ. Người muốn được công đức phải ưa viễn ly. Người muốn cầu pháp phải gần thiện tri thức. Người muốn tọa thiền phải lìa chỗ ồn náo. Người muốn tư huệ phải tu tư duy. Người muốn sinh lên trời Phạm Thế phải tu vô lượng tâm. Người muốn sinh lên trời Dục giới phải tu thập thiện.

Bạch Thế Tôn! Nếu người muốn được phước đức, muốn được huệ, muốn sinh vào chỗ tốt, muốn giàu có lớn, muốn thân xinh đẹp, muốn được biện tài, muốn đà-la-ni, muốn được trí huệ, muốn được vui, muốn lợi ích chúng sinh, muốn tiếng nói hay, muốn công đức, muốn cầu pháp, muốn tọa thiền, muốn tư huệ, muốn sinh lên trời Phạm Thế, muốn sinh lên trời Dục giới, muốn đắc niết-bàn, muốn được tất cả công đức, phải nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, tu hành đúng như lời nói.

Bạch Thế Tôn! Bồ-tát tu tam-muội này như thế nào?

Phật nói:

- Này Danh Ý! Bồ-tát nếu hay quán các pháp không, không chỗ chướng ngại, niệm niệm diệt hết, lìa nơi thương ghét, ấy là tu tam-muội này.

Lại nữa, này Danh Ý! Học tam-muội này chẳng vì một việc. Vì sao? Tùy theo tâm, tâm sở hành của các chúng sinh, tam-muội này có các hành ấy. Tùy theo tâm, tâm sở nhập của các chúng sinh mà tam-muội này có các nhập ấy. Tùy theo các căn tính của chúng sinh nhập môn mà tam-muội này có nhập môn ấy. Tùy theo danh sắc của chúng sinh, bồ-tát đắc tam-muội này cũng thị hiện bấy nhiêu danh sắc, biết được như vậy, tức là tu tam-muội này. Tùy theo danh sắc tướng mạo của tất cả chư Phật, bồ-tát đắc tam-muội này cũng thị hiện bấy nhiêu danh sắc tướng mạo, biết được như vậy, tức là tu tam-muội này. Tùy theo thấy cõi nước của tất cả chư Phật, bồ-tát tu tam-muội này cũng tự thành tựu cõi nước như thế, ấy gọi là tu Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.

Bồ-tát Danh Ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Tam-muội này tu hành rất khó.

Phật bảo Danh Ý:

- Vì thế ít có bồ-tát trụ tam-muội này, phần nhiều các bồ-tát tu hành các tam-muội khác.

Bấy giờ, Bồ-tát Danh ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Bồ-tát Di-lặc đây là bậc Nhất sinh bổ xứ kế tiếp Thế Tôn sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Ngài Di-lặc đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chăng?

Phật nói:

- Này Danh Ý! Các bồ-tát được trụ Thập địa, Nhất sinh bổ xứ thọ nhận chính vị Phật thảy đều đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.

Bồ-tát Di-lặc tức thời thị hiện thần lực như vầy: Bồ-tát Danh Ý và các chúng hội thấy các Diêm-phù-đề của tam thiên đại thiên thế giới này, trong đó có bồ-tát Di-lặc hoặc thấy ở trên trời, hoặc thấy tại nhân gian, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy hầu Phật như ngài A-nan, hoặc thấy trí huệ đệ nhất như ngài Xá-lợi-phất, hoặc thấy thần thông đệ nhất như ngài Mục-kiền-liên, hoặc thấy đầu-đà đệ nhất như ngài Đại Ca-diếp, hoặc thấy thuyết pháp đệ nhất như ngài Phú-lâu-na, hoặc thấy mật hạnh đệ nhất như ngài La-hầu-la, hoặc thấy trì luật đệ nhất như ngài Ưu-ba-ly, hoặc thấy thiên nhãn đệ nhất như ngài A-na-luật, hoặc thấy tọa thiền đệ nhất như ngài Ly-bà-đa, hoặc thấy thiên nhãn đệ nhất như ngài A-na-luật, hoặc thấy tọa thiền đệ nhất như ngài Ly-bà-da. Như vậy trong tất cả các đệ nhất đều thấy ngài Di-lặc hoặc thấy ngài vào các thành ấp xóm làng khất thực, hoặc thấy thuyết pháp, hoặc thấy tọa thiền. Bồ-tát Danh Ý và các đại chúng, tất cả đều thấy Bồ-tát Di-lặc hiện thần thông thế lực Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, thấy rồi rất vui mừng bạch Phật:

- Thế Tôn! Ví như vàng ròng dù có trui luyện cũng chẳng mất tính vàng. Các đại sĩ này cũng lại như vậy, tùy theo chỗ thử thách, các ngài đều có khả năng thị hiện pháp tính chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, bồ-tát Danh Ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Con cho rằng bồ-tát nếu hay thông đạt Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, phải biết thông đạt tất cả đạo hạnh, đối với Thanh Văn thừa, Bích-chi-phật thừa, và Phật Đại thừa đều thông đạt cả.

Phật nói:

- Đúng thế! Đúng thế! Đúng như lời ông nói. Bồ-tát nếu hay thông đạt Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thì hay thông đạt tất cả đạo hạnh.

Bấy giờ trưởng lão Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:

- Thế Tôn! Con cho rằng ngài Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử đã từng ở đời trước làm Phật sự, thị hiện ngồi đạo tràng chuyển bánh xe pháp và ở trước chúng sinh nhập đại diệt-độ.

Phật nói:

- Đúng thế, đúng thế! Đúng như lời ông nói. Này Ca-diếp! Quá khứ lâu xa vô lượng vô biên bất khả tư nghì a-tăng-kỳ kiếp. Lúc ấy, có Phật hiệu Long Chủng Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Từ thế giới này đi về hướng nam qua nghìn cõi nước Phật, có nước tên Bình Đẳng, không có núi sông cát sạn ngói đá gò nổng, đất bằng như bàn tay mọc loại cỏ mềm mại như ca-lăng-già, đức Phật Long Chủng Thượng ở thế giới ấy đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Lần đầu tiên chuyển pháp luân giáo hóa thành tựu bảy mươi ức chúng Bồ-tát, tám mươi ức người thành A-la-hán, chín muôn sáu nghìn người trụ trong pháp nhân duyên của Bích-chi-phật, sau đó tiếp tụcvô lượng Thanh văn tăng.

Này Ca-diếp! Đức Phật Long Chủng Thượng thọ mạng bốn trăm bốn mươi muôn năm, độ trời người xong nhập vào niết-bàn, phân thân xá-lợi lưu bố thiên hạ, dựng ba mươi sáu ức tháp để chúng sinh cúng dường. Sau khi Phật ấy diệt độ, pháp trụ mười muôn năm. Lúc đức Phật Long Chủng Thượng sắp nhập niết-bàn thọ ký cho bồ-tát Trí Minh rằng: “Bồ-tát Trí Minh này kế tiếp sau ta sẽ đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác cũng hiệu Trí Minh”.

Này Ca-diếp! Ông nói đức Phật Long Chủng Thượng ở thế giới Bình Đẳng thuở ấy, đâu phải người nào khác. Chớ sinh nghi ngờ. Vì sao? Chính là Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử.

Này Ca-diếp! Ông nay hãy xem thế lực Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, các Đại bồ-tát do sức này nên thị hiện nhập thai, sơ sinh, xuất gia đến cây Bồ-đề, ngồi nơi đạo tràng, chuyển bánh xe diệu pháp, nhập bát niết-bàn, phân bố xá-lợi mà cũng chẳng bỏ pháp bồ-tát, bát niết-bàn mà chẳng rốt ráo diệt.

Bấy giờ, trưởng lão Ma-ha Ca-diếp nói với ngài Văn-thù-sư-lợi:

- Ngài mới hay làm các việc hy hữu khó làm như thế để chỉ dạy chúng sinh.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Này Ca-diếp! Ý ông nghĩ sao? Núi Kỳ-xà quật này do ai tạo ra và thế giới này cũng từ đâu sinh ra?

Ngài Ca-diếp đáp:

- Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Tất cả thế giới đều do bọt nước làm thành cũng từ nhân duyên nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của chúng sinh mà ra.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói:

- Tất cả các pháp cũng từ nhân duyên nghiệp chẳng thể nghĩ bàn mà có. Tôi đối với nghiệp này không có công sức. Vì sao? Tất cả các pháp đều thuộc nhân duyên không có chủ, nên tùy ý mà thành. Nếu hiểu được điều này thì làm không khó. Này Ca-diếp! Nếu người chưa thấy tứ đế nghe việc này mà có thể tin hiểu thì thật là khó. Người thấy tứ đế rồi đắc các thần thông nghe điều này có thể tin mà chẳng cho là khó

Bấy giờ, đức Thế Tôn thân bay lên hư không cao bảy cây đa-la, ngồi kiết già, thân phóng ánh sáng soi khắp vô lượng thế giới mười phương. Tất cả chúng hội đều thấy vô lượng chư Phật mười phương thảy đều nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này chẳng thêm chẳng bớt, từ xa họ đều được nghe. Mười phương chư Phật cũng bay lên hư không cao bảy cây đa-la, ngồi kiết-già, thân phóng ánh sáng soi khắp vô lượng thế giới mười phương. Các chúng sinh kia cũng thấy Phật Thích-ca Mâu-ni, thân bay lên hư không ngồi kiết già. Các chúng hội kia thảy đều dùng hoa từ xa vói rải lên Phật Thích-ca Mâu-ni, đều thấy các hoa ở trên hư không hợp thành lọng hoa. Bồ-tát và các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, v.v… ở cõi này cũng dùng hoa rải lên các đức Phật kia, các bông hoa đều hóa thành lọng hoa che trên Đức Phật.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhiếp thần túc lại, ngồi nơi bổn tòa bảo Kiên Ý rằng:

- Đó là sức thần thông của Như Lai. Vì khiến cho công đức của chúng sinh thêm lớn, thế nên Như Lai thị hiện việc này.

Lúc Phật hiện sức thần thông, tám nghìn thiên nhân phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Và lúc nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này sắp xong, bồ-tát Kiên Ý và năm trăm bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội thảy đều được thấy thần lực của các đức Phật mười phương, đối với pháp sâu của Phật được trí quang minh trụ Đệ thập địa thọ chức vị Phật. Tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, phóng ánh sáng lớn soi khắp thế giới, nghìn muôn kỹ nhạc đồng thời trỗi lên và trên hư không mưa các thứ hoa.

Bấy giờ, Phật bảo A-nan:

- Ông nên thọ trì Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, đọc tụng rộng vì người nói.

Lúc ấy, Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh bạch Phật:

- Thế Tôn! Ngài A-nan trí huệ ghi nhớ có hạn lượng. Người Thanh văn nhờ âm thanh của người khác mà ngộ đạo, cớ sao Ngài đem pháp bảo tam-muội này chúc lụy cho ngài A-nan?

Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh phát lời chí thành nói:

- Nếu tôi hay ở hiện đời và đời sau rộng tuyên lưu bố pháp bảo tam-muội này không có hư dối thì các cây trong núi Kỳ-xà quật này thảy đều như cây bồ-đề của Phật, dưới các cây bồ-đề đều có bồ-tát.

Đế-thích Trì Tu Di Sơn Đảnh nói lời này xong, liền thấy các cây như cây bồ-đề, dưới mỗi cây đều có bồ-tát. Các cây bồ-đề đều phát ra tiếng nói:

- Như lời của Đế Thích Trì Tu-di Sơn Đảnh nói, đích thật người này ắt hay khiến cho tam-muội này được rộng tuyên lưu bố.

Bấy giờ, các Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v… đồng thanh bạch Phật:

- Thế Tôn! Giả sử Như Lai sống lâu một kiếp chẳng vì việc khác, dùng Thanh văn thừa vì người thuyết pháp, mỗi thời thuyết pháp đều như lúc mới chuyển pháp luân độ các chúng sinh. Nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này độ chúng sinh, đây mới là hơn. Vì sao? Các chúng sinh kia đều được dùng Thanh văn thừa độ so với Bồ-tát thừa trăm phần chẳng bằng một, trăm nghìn muôn ức phần cho đến toán số, thí dụ cũng chẳng thể bì kịp. Như Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này có thế lực vô lượng hay thành tựu các bồ-tát, khiến các ngài được đầy đủ Phật pháp.

Bấy giờ, bồ-tát Kiên ý bạch Phật:

- Thế Tôn! Tuổi thọ thật của Ngài là bao nhiêu? Và đến khi nào Ngài sẽ rốt ráo nhập niết-bàn?

Phật nói:

- Này Kiên Ý! Về phương đông cách thế giới này ba muôn hai nghìn cõi nước Phật, có thế giới tên Trang Nghiêm, trong nước ấy có Phật hiệu Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang thuyết pháp.

Này Kiên Ý! Như thọ mạng của Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương, thọ mạng của ta cũng lại như vậy.

- Bạch Thế Tôn! Thọ mạng của Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương là bao nhiêu?

Phật bảo Kiên Ý:

- Ông hãy tự qua hỏi, Phật ấy sẽ đáp cho.

Bồ-tát Kiên Ý nhờ thần lực của Phật và dùng sức Thủ-lăng-nghiêm tam-muội cùng sức thần thông thiện căn của mình trong khoảng một niệm đến thế giới Trang Nghiêm, đầu mặt đảnh lễ dưới chân đức Phật kia, đi nhiễu bên hữu ba vòng, rồi đứng qua một bên bạch Phật:

- Thế Tôn thọ mạng bao lâu sẽ nhập niết-bàn?

Đức Phật kia đáp:

- Như thọ mạng của Phật Thích-ca Mâu-ni, thọ mạng của ta cũng lại như vậy. Này Kiên Ý! Ông muốn biết ư? Thọ mạng của ta là bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp, thọ mạng của Phật Thích-ca Mâu-ni cũng vậy.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý lòng rất vui mừng liền trở về thế giới Ta-bà, bạch Phật:

- Thế Tôn! Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương kia thọ bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp, và bảo con rằng: “Như thọ mạng của Ta, thọ mạng của Phật Thích-ca Mâu-ni cũng lại như vậy”.

Bấy giờ, ngài A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y bày vai hữu, chắp tay hướng vể Phật bạch rằng:

- Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, con cho rằng đức Thế Tônthế giới Trang Nghiêm kia dùng danh tự khác để làm lợi ích chúng sinh.

Bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài A-nan:

- Hay thay, hay thay! Ông nhờ thần lực của Phật mà có thể biết việc này. Thân đức Phật kia chính là thân ta dùng danh tự khác ở thế giới kia thuyết pháp độ thoát chúng sinh. Này A-nan! Sức thần thông tự tại như vậy đều là thế lực của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội.

Bấy giờ, Phật bảo bồ-tát Kiên Ý:

- Này Kiên Ý! Do vì việc này nên biết ta thọ bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp mới sẽ rốt ráo nhập niết-bàn.

Lúc đại chúng trong hội nghe Phật nói thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn như thế đều rất vui mừng được điều chưa từng có, bạch Phật:

- Thế Tôn! Thần lực của chư Phật thật chưa từng có, tất cả việc làm chẳng thể nghĩ bàn, ở thế giới này thị hiện thọ mạng ngắn ngủi như thế mà thật ra ở thế giới kia thọ mạng dài đến bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp. Thế Tôn! Nguyện cho tất cả chúng sinh đầy đủ thọ mạng chẳng thể nghĩ bàn như thế.

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Kiên Ý:

- Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này ở các chỗ như quận quốc, thành ấp, xóm làng, tinh xá, vườn rừng, thì trong các chỗ ấy các ma và dân ma không được cơ hội thuận tiện khuấy nhiễu.

Lại bảo Kiên Ý:

- Nếu có pháp sư biên chép đọc tụng giải nói Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này thì đối với người và các loài phi nhân đều không có sợ hãi, lại được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn. Những gì là hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn? Công đức chẳng thể nghĩ bàn, trí chẳng thể nghĩ bàn, huệ chẳng thể nghĩ bàn, phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, pháp sáng suốt chẳng thể nghĩ bàn, tổng trì chẳng thể nghĩ bàn, pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, theo nghĩa ghi nhớ chẳng thể nghĩ bàn, các sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn, phân biệt các ngôn ngữ của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, hiểu sâu sở thích của tâm chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, được thấy chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, các pháp được nghe chẳng thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn, tam-muội tự tại chẳng thể nghĩ bàn, hình sắc xinh đẹp chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu Tịnh độ chẳng thể nghĩ bàn, công đức tự tại chẳng thể nghĩ bàn, tu hành các ba-la-mật chẳng thể nghĩ bàn, được bất thoái chuyển Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, đó là hai mươi.

Này Kiên Ý! Nếu người biên chép đọc tụng Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này được hai mươi phần công đức chẳng thể nghĩ bàn vừa kể ở trên. Thế nên, này Kiên Ý! Nếu người muốn được các lợi ích hiện đời và đời sau, nên biên chép, đọc tụng, giải nói, tu hành Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.

Này Kiên Ý! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào cầu Phật đạo ở trong nghìn muôn kiếp, tâm siêng năng tu hành sáu ba-la-mật; nếu có người nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này liền hay tin nhận, tâm chẳng lui sụt chẳng kinh chẳng sợ thì phước hơn người kia, chóng đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, hà huống nghe rồi thọ trì, đọc tụng, tu hành, vì người khác mà giải nói. Nếu có bồ-tát muốn nghe pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật mà chẳng kinh chẳng sợ, muốn ở trong giáo pháp của tất cả chư Phật hiện tại tự mình hiểu rõ chẳng nhờ người khác dạy, phải nên tu tập tam-muội này. Nếu muốn nghe pháp chưa từng nghe và tin nhận chẳng chống nghịch thì phải nên nghe Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này.

Lúc Phật nói kinh Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này, vô lượng chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, lại gấp bội số ấy trụ bậc bất thoái chuyển, lại gấp bội số ấy đắc vô sinh nhẫn; một muôn tám nghìn Bồ-tát đắc Thủ-lăng-nghiêm tam-muội này; một muôn tám nghìn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni vì chẳng thọ các pháp nên lậu tận giải thoát đắc A-la-hán; hai muôn sáu nghìn ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ở trong các pháp được pháp nhãn tịnh; ba mươi na-do-tha chư thiên được nhập Thánh vị.

Phật nói kinh này xong, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, bồ-tát Kiên Ý v.v... tất cả các vị Đại bồ-tát và các đại đệ tử Thanh văn, tất cả chư Thiên, Long, Càn-thát-bà, A-tu-la v.v... nhân dânthế gian nghe lời Phật nói vui vẻ tin nhận.

Dịch xong, ngày 2/9/Tân Dậu (29/09/1981)
Tại Thiền viện Thường Chiếu
BBT Huệ Quang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32575)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12031)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34442)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12519)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13732)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13101)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14228)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13851)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant