Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Tóm lược về Nhân

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16447)
2. Tóm lược về Nhân

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương III

PAKI.N.NAKA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
PHẦN LINH TINH

II. Hetu Saṅgaho
Tóm lược về Nhân

4.

Hetusaṅgahe hetu nāma lobho doso moho alobho adoso amoho c'āti chabbidhā bhavanti.

Tattha pañcadvārāvajjanadvipañcaviññāṇa-sampa- ṭicchana-santīraṇa-votthapana-hasana-vasena aṭṭhārasāhetukacittāni nāma,

Sesāni sabbāni'pi ekasattati cittāni sahetukañ'eva.

Tattha'pi dve momūhacittāni ekahetukāni.

Sesāni dasa akusalacittāni c'eva ñāṇavippayuttāni dvādasa kāmāvacarasobhanāni c'āti dvāvīsati dvihetukacittāni.

Dvādasa ñāṇasampayutta-kāmāvacara sobhanāni c'eva pañcatiṁsamahaggata-lokuttara cittāni c'āti satta cattāḷīsa tihetukacittāni.

5.

Lobho doso ca moho ca hetu akusalā tayo
Alobhādosāmoho ca kusalābyākatā tathā
Ahetukaṭṭhāras'eka hetukā dve dvāvīsati
Dvihetukā matā satta cattālisa tihetukā.

§4

Trong phần tóm lược về nhân (9), có sáu nhân là tham, sân, si, không-tham hay tâm quảng đại, không-sân hay thiện ý, và không-si hay trí tuệ.

Nơi đây có mười tám loại tâm không có nhân (vô nhân) (10) là ngũ môn hướng tâm, ngũ song thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, xác định tâm và tiếu sanh tâm.

Tất cả bảy mươi mốt (11) loại tâm còn lại thì có nhân.

Trong những tâm còn lại nầy có hai (12) liên hợp với si và chỉ có một nhân.

Mười loại tâm bất thiện còn lại (13) và mười hai (14) loại tâm Ðẹp thuộc Dục Giới, không liên hợp với tri kiến -- cộng chung lại là hai mươi hai -- có hai nhân.

Mười hai loại tâm Ðẹp thuộc Dục Giới (15), liên hợp với tri kiến và ba mươi lăm loại tâm Cao Thượng và Siêu Thế -- cộng chung lại là bốn mươi bảy -- có ba nhân.

§5

Tham, sân, si, là ba nhân bất thiện. Cùng thế ấy tâm buông bỏ (không-tham), thiện ý (không-sân) và trí tuệ (không-si) là thiện và bất định (16).

Nên hiểu rằng có mười tám loại tâm không có nhân, hai loại có một nhân, hai mươi hai loại có hai nhân, và bốn mươi bảy loại có ba nhân.

Chú Giải:

9. Xem chương I, chú giải số 9.

Muốn biết rõ đầy đủ chi tiết về hetu (nhân), xin xem Dhammasaṅghani Hetu-gocchakaṁ, Phần 1053-1083; Buddhist Psychology trang 274-287.

Theo sách Atthasālini có bốn loại hetu, nhân.

i. Hetu-hetu, nguyên nhân của nhân, hay duyên sanh nhân. Có ba nhân thiện, ba nhân bất thiện, và ba nhân bất định (abyākata, không có tánh cách đạo đức, không thiện cũng không bất thiện). Ở đây danh từ hetu được dùng trong ý nghĩa rễ cây.

ii. Paccaya-hetu, điều kiện tạo nhân, hay nguyên nhân tác dụng như phương tiện.

"Bốn Ðại Chánh Yếu (Mahābhūta, Tứ Ðại), nầy chư Tỳ Khưu, là nguyên nhân (hetu), là những điều kiện (paccaya, duyên) để Sắc Uẩn (Rūpakkhandha) biểu hiện".

Ở đây hetu được dùng trong nghĩa tương quan tạo duyên (paccayahetu).

Có sự khác biệt tế nhị giữa hetu (nhân) và paccaya (duyên). Hetu (nhân) có nghĩa là rễ (mūla). Paccaya là yếu tố hỗ trợ (upakāraka dhamma). Hetu ví như rễ cây, và paccaya như phân bón, nước, và đất, những yếu tố giúp cho cây trưởng thành.

Sự khác biệt nầy phải được hiểu biết rành rẽ.

Cũng nên ghi nhận rằng đôi khi hai danh từ hetu và paccaya được xem như đồng nghĩa.

iii. Uttama-hetu, nguyên nhân hay điều kiện chánh (chí thượng nhân).

Một đối tượng (trần cảnh) đáng được ưa thích tác động như nguyên nhân chánh (uttama) để tạo quả lành và đối tượng không đáng được ưa thích tác động như nguyên nhân chánh tạo quả xấu.

Ở đây, hetu là nguyên nhân chánh.

iv. Sādhāraṇa-hetu, nguyên nhân hay điều kiện chung, thông thường (phổ biến nhân).

Vô minhnguyên nhân (hetu), điều kiện (paccaya, duyên), để hành (saṅkhārā) phát sanh.

Ở đây hetu có nghĩa là nguyên nhân tổng quát, thông thường.

Cũng như tinh chất của đất và nước là nguyên nhân thông thường giúp tạo tánh chất ngọt hay đắng của trái cây, cùng thế ấy, vô minhnguyên nhân thông thường của hành.

Mặc dầu danh từ hetu có nhiều ý nghĩa tương tợ, không khác nhau xa, ở đây hetu được dùng theo nghĩa rễ, căn nguyên, nhân.

10.

Tất cả những loại tâm Vô Nhân (Ahetuka Cittas) đều không có nhân nào. Do đó những loại tâm nầy không có tánh cách đạo đức, không thiện cũng không bất thiện.

Bảy trong những loại tâm nầy là quả của những hành động bất thiện, tám là quả của những hành động thiện,và ba chỉ là hành suông, hành động không tạo quả. (7+8+3 = 18)

(Xem chương I, Ahetuka Cittāni - trang 38)

11.

Tức là: 89 - 18 = 71

12.

Là loại tâm liên hợp với hoài nghi (vicikicchā) và tâm kia, liên hợp với phóng dật (uddhacca). Ðó là hai tâm duy nhất chỉ có một nhân là nhân si. Hoài nghi (vicikicchā), vốn là một loại tâm yếu, không đủ năng lực để quyết định kiếp sống tương lai.

Cả hai, hoài nghiphóng dật, là hai thằng thúc, tức dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng luân hồi. Hoài nghi được tận diệt khi chứng đắc Ðạo (Magga) của tầng Thánh đầu tiên, và phóng dật chỉ được tận diệt khi đắc Ðạo của tầng thánh thứ tư, A La Hán Ðạo.

13.

Tám loại tâm bất thiện đầu tiên liên quan đến lobha (tham) và moha (si). Hai loại tâm bất thiện kế đó bắt nguồn từ dosa (sân) và moha (si).

Nên ghi nhận rằng moha (si) nằm trong tất cả những loại tâm bất thiện.

14.

Mười hai tâm Ðẹp (cũng được gọi là Tịnh Hảo hay Tịnh Quang Tâm) thuộc Dục Giới (Kāmāvacara Sobhana Cittas) nầy (đã được đề cập đến trong chương I) không liên hợp với tri kiến (ñāṇa) và do hai nhân alobha (không-tham) và adosa (không-sân) tạo điều kiện để phát sanh. Hai nhân nầy hiện hữu cùng một lúc trong các tâm thiện.

15.

Mười hai tâm Ðẹp thuộc Dục Giới còn lại, liên hợp với tri kiến, do tất cả ba nhân thiện tạo điều kiện.

Cùng thế ấy, 15 tâm thuộc Sắc Giới, 12 thuộc Vô Sắc Giới và tám loại Siêu Thế (15 + 12 + 8 = 35), luôn luôn liên hợp với ba nhân.

Nên hiểu rằng không phải như vậy là không bao giờ có tâm bất thiện, do ba nhân bất thiện tạo duyên, phát sanh trong cảnh Sắc GiớiVô Sắc Giới. Ðiểm cần phải biết ở đây là trong các loại tâm Cao Thượng (Ðại Hành) không có nhân bất thiện.

Không giống như các tâm thiện (Kusala Citta) khác, những tâm Siêu Thế (Lokuttara Citta), mặc dầu liên hợp với ba nhân thiện, không có năng lực tái tạo, tức không tạo nghiệp.

16. Abyākata, Bất Ðịnh

Theo nghĩa trắng, là cái gì không biểu hiện. Danh từ nầy được áp dụng cho cả hai, tâm Quả (Vipāka) và tâm Hành (Kriyā). Vipāka tự nó là quả và như vậy, không tạo nghiệp. Kriyā là hành động không tạo nghiệp, không bao giờ trổ quả. Rūpa (Sắc) cũng được xem là abyākata (bất định), bởi vì tự nó không tạo thêm quả.

Ahetuka -- những loại tâm vô nhân = 18
Ekahetuka -- những loại tâm có một nhân = 2
Dvihetuka -- những loại tâm có hai nhân: bất thiện = 10; thiện = 12
Tihetuka -- những loại tâm có ba nhân: Ðẹp = 12; Cao Thượng = 27; Siêu Thế = 8

Tổng cộng: 18 + 2 + 10 + 12 + 12 + 27 + 8 = 89

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10743)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10408)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11871)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13528)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33515)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11253)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11321)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11750)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11406)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12462)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15626)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11733)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12835)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12654)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12610)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12234)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12254)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11907)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16734)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14948)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12766)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11805)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16421)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13146)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11733)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10316)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10885)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9952)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11659)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant