Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Phương thức diễn tiến của chặp đăng ký

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16136)
5. Phương thức diễn tiến của chặp đăng ký

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

CHƯƠNG IV

VĪTHI-SAṄGAHA VIBHĀGO
Phân tách Tiến trình tâm

-ooOoo-

Tadārammana Niyamo
Phương thức diễn tiến của chặp đăng ký

9.

Sabbattha'pi pan' ettha aniṭṭhe ārammaṇe akusala- vipākān' eva pañcaviññāṇasampaticchanasantīraṇa- tadārammaṇāni, iṭṭhe kusalavipākāni, atiṭṭhe pana somanassasahagatān'eva santīraṇatadārammaṇāni.

Tattha'pi somanassasahagatakriyājavanāvasāne somanassasahagatān' eva tadārammaṇāni bhavanti. Upekkhāsahagatakriyājavanāvasāne ca upekkhā- sahagatān'eva honti.

Domanassasahagatajavanāvasāne ca pana tadārammaṇāni c'eva bhavaṅgāni ca upekkhā- sahagatān'eva bhavanti. Tasmā yadi somanassa-paṭisandhikassa domanassasahagatajavanāvasāne tadārammaṇasambhavo natthi. Tadā yaṁ kiñci paricitapubbaṁ parittārammaṇamārabbha upekkhā- sahagatasantīraṇaṁ uppajjati. Tamanantaritvā bhavaṅgapāto' va hoti'ti'pi vadanti ācariyā. Tathā kāmāvacarajavanāvasāne kāmāvacarasattānaṁ kāmāvacaradhammesv'eva ārammaṇabhūtesu tadārammaṇaṁ icchantī'ti.

10.

Kāme javanasattārammaṇānaṁ niyame sati
Vibhūteti mahante ca tadārammaṇamīritaṁ.
Ayam' ettha Tadārammaṇa Niyamo.

§9

Ở đây, trong mọi trường hợp (tức xuyên qua hoặc ngũ quan môn hoặc ý môn) khi đối tượng (12) không đáng được ưa thích, ngũ quan thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, đăng ký tâm (phát sanh) là quả bất thiện. Nếu đối tượng đáng được ưa thích, là quả thiện. Nếu đối tượng đáng được vô cùng ưa thích, tâm suy đạc và tâm đăng ký đồng phát sanh cùng thọ lạc.

Về điểm nầy, sau những chặp javanas hành liên hợp với thọ lạc, những chặp đăng ký phát sanh cũng liên hợp với thọ lạc. Sau những javanas hành liên hợp với thọ xả các chặp đăng ký cũng liên hợp với thọ xả.

Nhưng sau những javanas liên hợp với thọ khổ, các chặp đăng ký và bhavaṅga cũng liên hợp với thọ xả. Do đó, với người mà thức nối liền (hay thức tái sanh) liên hợp với thọ lạc, nếu sau những chặp javanas liên hợp với thọ khổ, các chặp đăng ký không phát sanh, chừng ấy một chặp suy đạc tâm phát sanh liên hợp với thọ xả, duyên theo một đối tượng đã quen thuộc từ trước. Tức khắc sau đó, quý vị đạo sư dạy, có sự chìm biến vào bhavaṅga.

Cùng thế ấy, chặp đăng ký được trông đợi sẽ phát sanh đến những chúng sanh ở cảnh Dục Giới sau những chặp javanas thuộc Dục Giới, chỉ khi nào những hiện tượng thuộc Dục Giới trở thành đối tượng.

§10

Tâm đăng ký phát sanh, các Ngài dạy, liên quan đến những đối tượng "sáng" và "rất lớn" khi có sự chắc chắn về những đối tượng, những chúng sanh, và những javanas thuộc Dục Giới.

Ðây là phương thức diễn tiến của tâm đăng ký.

Chú Giải

12. Ārammaṇa, Ðối Tượng.

Tánh cách đáng được ưa thích hay không đáng được ưa thích của một đối tượng được xác định, không phải tùy hợp theo tâm tánh cá nhân, mà tùy theo bản chất cố hữu của đối tượng ấy. Tâm quả do đó phát sanh được xem là hậu quả của hành động tốt hay xấu, thiện hay bất thiện.

Ðối với người không phải Phật tử mà có tánh cố chấp, sự kiện thấy Ðức Phật có lẽ là một điều không vui mà có khi là bực tức. Những chặp javanas của người ấy tất nhiên là bất thiện. Tuy nhiên, cái quả trong sạch tiêu cực của nhãn thức được tạo nên do một nghiệp thiện quá khứ, là quả thiện (kusala vipāka). Tâm quả nầy không phải do ý chí của người ấy tạo nên mà là hậu quả dĩ nhiên phải đến. Tiến trình javana trái lại, là do ý chí của người ấy tạo điều kiện.

Lại nữa, thí dụ đối với một con chó thường, chỉ sự kiện thấy phẩn đã là một nguồn thỏa thích. Ðối tượng ấy thông thường là không đáng được ưa thích và là một hậu quả xấu, một quả bất thiện (akusala vipāka). Nhưng tiến trình javana do đó được tạo nên là trong sạch, thiện, đối với chó. Cảm giác đồng phát sanh là thọ lạc.

Chí đến một vị A La Hán, cũng có thể gặt hái một quả bất thiện (akusala vipāka), khi Ngài thấy một đối tượng không đáng được ưa thích, nhưng luồng javana của Ngài không bao giờ là thiện hay bất thiện. Cảm giác đồng phát sanh là thọ xả.

Bây giờ, khi một đối tượng không đáng được ưa thích phát hiện xuyên qua ý môn hay ngũ quan môn thì ngũ quan thức và những chặp tâm tiếp thọ,suy đạc, đăng ký phát sanh trong tiến trình tương ứng đều là quả bất thiện (akusala vipāka). Thọ đồng phát sanh luôn luôn là upekkhā (xả), ngoại trừ trường hợp thân thức, và đây là thọ khổ. Những chặp tư tưởng nầy là quả không thể tránh của những hành động bất thiện.

Nếu đối tượng phát hiện là đáng được ưa thích, những chặp tư tưởng nói trên sẽ là quả thiện (kusala vipāka). Ở đây cũng vậy, thọ đồng phát sanh là xả, ngoại trừ thân thức, và đây là thọ lạc. Tất cả những chặp tư tưởng nầy là hậu quả của những hành động thiện.

Khi đối tượng đáng được ưa thích vô cùng, thọ của chặp tiếp thọ (santīraṇa) sẽ đổi khác. Thay vì là upekkhā (xả), đây là somanassa (lạc). Những chặp đăng ký theo sau tiến trình javana hành thuộc Dục Giới đồng phát sanh với thọ lạc cũng liên hợp với một loại thọ tương tợ. Cùng thế ấy, theo sau tiến trình javana upekkhā là những chặp tâm đăng ký liên hợp với thọ xả (upekkhā tadārammaṇas).

Thông thường, những chặp javana khởi sanh trước và những chặp đăng ký tiếp liền theo sau đều có một loại thọ như nhau. Trước là thọ lạc thì sau cũng thọ lạc. Nếu trước là thọ xả, sau cũng thọ xả.

Như vậy, những chặp tâm đăng ký sẽ như thế nào sau một tiến trình javana liên hợp với thọ khổ? Biết rằng không có đăng ký tâm liên hợp với thọ khổ (domanassa).

Nếu thức nối liền (paṭisandhi citta), hay thức tái sanh, của một người liên hợp với thọ lạc thì sẽ không có tâm đăng ký.Và chặp bhavaṅga tức khắc theo liền sau cũng liên hợp với thọ lạc. Trong trường hợp nầy, một tâm suy đạc xả mà không có tác dụng đặc biệt nào, chỉ khởi phát suông trong một chặp. Chặp tâm khởi sanh bất ngờ nầy có một tên kỹ thuật là āgantukabhavaṅga. Thông thường đối tượng của những chặp javanas và của chặp đăng ký là một. Nhưng trong trường hợp đặc biệt nầy, đối tượng khác biệt. Ðối tượng của chặp suy đạc nầy là một đối tượng khác thuộc Dục Giới, rất quen thuộc với ta trong kiếp sống. Ðối tượng nầy được gọi là paritta (nhỏ hơn, hoặc ít hơn) sánh với những đối tượng cao hơn thuộc Sắc Giới, Vô Sắc GiớiSiêu Thế. Ðàng khác, nếu thức tái sanh (paṭisandhi citta) không liên hợp với thọ lạc, các chặp đăng ký (tadārammaṇa) sẽ trở thành vô ký, và những chặp bhavaṅga theo sau đó cũng vậy.

Phải ghi nhận rằng các chặp đăng ký (tadāramaṇa) chỉ phát sanh sau những chặp javanas thuộc Dục Giới, đến những chúng sanh thuộc Dục Giới, và chỉ liên quan đến những đối tượng thuộc Dục Giới "rất lớn" và "sáng". 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15911)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14346)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13440)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13152)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16066)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16319)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11776)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17469)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12795)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13582)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12788)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14776)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16245)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 11999)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12660)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12787)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12691)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14029)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14020)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12292)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10932)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13121)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13798)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13065)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12896)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13409)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10125)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13816)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13596)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16163)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11873)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12873)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12579)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10891)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10859)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12658)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10981)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12520)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11231)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant