Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Bốn loại nghiệp

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16440)
3. Bốn loại nghiệp

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

CHƯƠNG V

VĪTHIMUTTA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
Phần không có tiến trình

-ooOoo

III. Kammacatuka
Bốn loại nghiệp (29)

7.

i. Janakam' uppatthambakam' upapīlakam' upaghātakañc'āti kiccavasena,

ii. Garukam' āsannam' āciṇṇaṁ kaṭattākammañc'āti pākadānapariyāyena,

iii. Diṭṭhadhammavedanīyaṁ upapajjavedanīyaṁ aparāpariyavedanīyaṁ ahosikammañc'āti pākakālavasena ca cattāri kammāni nāma.

iv. Tathā akusalaṁ, Kāmāvacarakusalaṁ, Rūpāvacarakusalaṁ, Arūpāvacarakusalaṁ c'āti pākaṭṭhānavasena.

Taṭṭha akusalaṁ kāyakammaṁ, vacīkammaṁ, mano-kammaṁ c'āti kammadvāravasena tividhaṁ hoti.

Kathaṁ?

Pāṇātipāto, adinnādānaṁ, kamesu micchācāro ca kāyaviññātti saṅkhāte kāyadvāre bāhullavuttito kāyakammaṁ nāma.

Musāvādo, pisuṇavācā, pharusavācā, samphappalāpo c'āti vacīviññatti saṅkhāte vacīdvare bāhullavuttito vacīkammaṁ nāma.

Abhijjhā, vyāpādo, micchādiṭṭhi c'āti aññatrā pi viññattiyā manasmiṁ y'eva bāhullavuttito mano-kammaṁ nāma.

Tesu pāṇātipāto pharusavācā vyāpādo ca dosamūlena jāyanti. Kāmesu micchācāro abhijjhā micchādiṭṭhi lobhamūlena. Sesānī cattāri dvīhi mūlehi sambhavanti. Cittuppādavasena pan'etaṁ akusalaṁ sabbathā'pi dvādasasavidhaṁ hoti.

Kāmāvacarakusalam pi ca kāyadvāre pavattaṁ kāyakammaṁ, vacīdvāre pavattaṁ vacīkammaṁ, manodvāre pavattaṁ manokammaṁ c'āti kamma- dvāravasena tividhaṁ hoti.

Tathā dāna-sīla-bhāvanā-vasena cittuppādavasena pan' etaṁ aṭṭhavidhaṁ pi.

Dāna - sīla - bhāvanā - pacāyana - veyyāvacca -pattidāna - pattānumodana - dhammasavana-dhamma-desanā - diṭṭhijjukammavasena dasavidhaṁ hoti.

Taṁ pan' etaṁ vīsatividham pi kāmāvacara- kammam' icc' eva saṅkhaṁ gacchati.

Rūpāvacarakusalaṁ pana manokammam' eva. Tañ ca bhāvanāmayaṁ appanāppattaṁ jhānaṅgabhedena pañcavidhaṁ hoti.

Tathā Arūpāvacarakusalañ ca manokammaṁ. Tam' pi bhāvanāmayaṁ appanāppattaṁ ālambanabhedena catubbidhaṁ hoti.

Ettha akusalakammaṁ uddhaccarahitaṁ apāya- bhūmiyaṁ paṭisandhiṁ janeti. Pavattiyaṁ pana sabbam pi dvādasavidhaṁ. Sattākusalapākāni sabbatthā'pi kāmaloke rūpaloke ca yathārahaṁ vipaccanti.

Kāmāvacarakusalam pi ca kāmasugatiyam' eva paṭisandhiṁ janeti. Tathā pavattiyañ ca mahā- vipākāni. Ahetukavipākāni pana aṭṭha' pi sabbatthā' pi kāmaloke rūpaloke ca yathārahaṁ vipaccanti.

Tatth' āpi tihetukam ukkaṭṭhaṁ kusalaṁ tihetukaṁ paṭisandhiṁ datvā pavatte soḷasavipākāni vipaccati.

Tihetukam'omakaṁ dvihetukam ukkaṭṭhañ ca kusalaṁ dvihetukaṁpaṭisandhiṁ datvā pavatte tihetukarahitāni dvādasa vipākāni vipaccati. Dvihetukam' omakaṁ pana kusalam' ahetukam eva paṭisandhiṁ deti. Pavatte ca ahetukavipākān'eva vipaccati.

8.

Asaṅkhāraṁ sasaṅkhāra-vipākāni na paccati
Sasaṅkhāram asaṅkhāra-vipākāni' ti kecana.
Tesaṁ dvādasapākāni dasaṭṭha ca yathākkamaṁ,
Yathā vutānusārena yathāsambhavam'uddise.

9.

Rūpāvacarakusalaṁ pana paṭhamajjhānaṁ parittaṁ bhāvetvā Brahmapārisajjesu uppajjanti. Tad' eva majjhimaṁ bhāvetvā Brahmapurohitesu, paṇītaṁ bhāvetvā Mahā Brahmesu.

Tathā dutiyajjhānaṁtatiyajjhānañca parittaṁ bhāvetvā Parittābhesu. Majjhimaṁ bhāvetvā Appamāṇābhesu; paṇītaṁ bhāvetvā Ābhassaresu. Catutthajjhānaṁ parittaṁ bhāvetvā Paritasubhesu;majjhimaṁ bhāvetvā Appamāṇasubhesu; paṇītaṁ bhāvetvā Subhakiṇhesu. Pañcamajjhānaṁ bhāvetvā Vehapphalesu.

Tam' eva saññāvirāgaṁ bhāvetvā Asaññāsattesu.

Anāgāmino pana Suddhāvāsesu uppajjanti. Arūpāvacarakusalañ ca yathākkamaṁ bhāvetvā

arūppesu uppajjanti.

10.

Itthaṁ mahaggataṁ puññaṁ yathābhūmi vavatthitaṁ
Janeti sadisaṁ pākaṁ paṭisandhippavattiyaṁ.
Idam' ettha Kammacatukka
ṁ.

§7

i. Theo phương thức tác dụng, có bốn loại nghiệp là:

a. Nghiệp Tái Tạo (30),
b. Nghiệp Trợ Duyên (31),
c. Nghiệp Bổ Ðồng (32),
d. Nghiệp Tiêu Diệt (33).

ii. Theo thứ tự trổ quả, có bốn loại nghiệp là:

a. Trọng Nghiệp (34),
b. Cận Tử Nghiệp (35),
b. Thường Nghiệp (36),
c. Nghiệp Tích Tụ (37).

iii. Theo thời gian trổ quả, có bốn loại nghiệp là:

a. Hiện Nghiệp (38),
b. Hậu Nghiệp,
c. Nghiệp Vô Hạn Ðịnh,
d.Nghiệp Vô Hiệu Lực.

iv. Theo nơi chốn trổ quả, có bốn loại nghiệp là:

a. Nghiệp Bất Thiện,
b. Nghiệp Thiện Thuộc Dục Giới,
c. Nghiệp Thiện Thuộc Sắc Giới,
d. Nghiệp Thiện Thuộc Vô Sắc Giới.

Trong các loại nghiệp nầy, Nghiệp Bất Thiện có ba, tùy hợp những căn môn xuyên qua đó nghiệp đã được tạo -- đó là hành động bằng thân, hành động bằng khẩu, và hành động bằng ý.

Thế nào?

Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, là những hành động thường được thực hiện bằng thân (39), gọi là thân nghiệp.

Nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ, và nói nhảm, là những hành động thường được thực hiện xuyên qua lời nói, được gọi là khẩu nghiệp (41).

Tham ái, sân hận, và tà kiến (42) là hành động tinh thần thường được thực hiện xuyên qua chính cái tâm, không có thân hay khẩu nghiệp.

Trong các nghiệp nầy, sát sanh, nói thô lỗ, và sân hận bắt nguồn từ căn Sân. Tà dâm, tham ái bắt nguồn từ căn Tham. Bốn nghiệp còn lại bắt nguồn từ cả hai căn.

Tùy hợp theo những loại tâm, Nghiệp Bất Thiện có mười hai.

Thiện Nghiệp Thuộc Dục Giới có ba, tùy hợp theo những căn môn xuyên qua đó hành động được thực hiện là: hành động có liên quan đến thân môn, hành động có liên quan đến khẩu môn, và hành động có liên quan đến ý môn.

Cùng thế ấy, có ba như bố thí, trì giới và hành thiền. Có tám tùy hợp theo những loại tâm.

Nghiệp Thiện cũng có mười [1], tùy hợp theo: 1. bố thí, 2. trì giới, 3. hành thiền, 4. lễ bái (bậc trưởng thượng), 5. phục vụ, 6. hồi hướng phước báu, 7. thọ hưởng phước báu (của người khác), 8. nghe Giáo Pháp, 9. giảng dạy Giáo Pháp, 10. củng cố Chánh Kiến. (43).

Tất cả hai mươi loại nầy -- Bất Thiện NghiệpThiện Nghiệp -- được xem là Nghiệp Thuộc Dục Giới.

Nghiệp Thiện của cảnh Sắc Giới thuần túy tinh thần và được tạo nên do công trình hành thiền. Tùy hợp theo các yếu tố của Thiền (Jhāna) có năm chi Thiền.

Cùng thế ấy, Nghiệp Thiện của cảnh Vô Sắcsinh hoạt tinh thần, và cũng bắt nguồn từ công trình hành thiền. Tùy hợp theo các đề mục của Thiền, thiền Vô Sắc Giới có bốn bậc [2] .

Nơi đây, Nghiệp Bất Thiện, ngoại trừ phóng dật [3], đưa đến tái sanh trong Khổ Cảnh. Nhưng trong kiếp sống, tất cả mười hai nghiệp (Bất Thiện) đều có trổ quả (44). Bất luận nơi đâu trong Dục Giới và trong Sắc Giới, tùy trường hợp, đều có bảy tâm quả bất thiện.

Nghiệp Thiện (45) trong cảnh Dục Giới đưa đến tái sanh trong trạng thái hữu phúc của Dục Giới. Cùng thế ấy, tám tâm Ðại Quả (được chứng nghiệm hạnh phúc trong kiếp sống). Tám tâm quả vô nhân (thiện) được chứng nghiệm bất luận ở đâu trong Dục GiớiSắc Giới, tùy trường hợp.

Nơi đây, nghiệp Thiện Cao Thượng nhất (46) đồng phát sanh cùng ba nhân đưa đến tái sanh, cùng thế ấy, liên hợp với ba nhân. Trong kiếp sống, nghiệp nầy tạo điều kiện cho mười sáu loại tâm quả.

Nghiệp thiện đồng phát sanh cùng ba nhân của hạng thấp (47) và cùng hai nhân của hạng cao, đưa đến tái sanh với hai nhân và tạo duyên cho mười hai tâm quả, ngoại trừ những tâm có ba nhân, trong kiếp sống.

Nhưng nghiệp thiện đồng phát sanh cùng hai nhân của hạng thấp, đưa đến tái sanh không nhân nào và tạo duyên cho những tâm quả vô nhân trong kiếp sống.

Tâm thiện không có sự xúi giục, không tạo một (tâm) quả có sự xúi giục. Vài người nói một tâm thiện có sự xúi giục không tạo một tâm quả không có sự xúi giục.

§8

Vài vị pháp sư (48) nói rằng những tư tưởng không có sự xúi giục không tạo quả có sự xúi giục. và

những tư tưởng có sự xúi giục không tạo tâm quả không có sự xúi giục.

Theo các Ngài, như đã nói trên, sự phát sanh của những tâm quả, theo thứ tự, có mười hai, mười, và tám (49) phải được trình bày đầy đủ.

§9

Về nghiệp thiện của cảnh Sắc Giới, những vị đã phát triển Sơ Thiền ở mức độ thấp thì sanh vào cảnh Phạm Chúng Thiên. Những vị cùng phát triển tầng Thiền nầy ở mức độ trung bình, sanh vào cảnh Phạm Phụ Thiên. Phát triển đến mức độ cao, sanh vào cảnh Ðại Phạm Thiên.

Cùng thế ấy, phát triển Nhị ThiềnTam Thiền ở mức độ thấp các Ngài sanh vào cảnh Thiểu Quang Thiên. Phát triển ở mức độ trung bình các Ngài sanh vào cảnh Vô Lượng Quang Thiên. Phát triển đến mức cao độ thì các Ngài sanh vào cảnh Quang Âm Thiên.

Phát triển Tứ Thiền ở mức độ thấp thì các Ngài sanh vào cảnh Thiền Tịnh Thiên. Phát triển đến mức trung bình, các Ngài sanh vào Vô Lượng Tịnh Thiên. Phát triển đến mức độ cao thì các Ngài sanh vào cảnh Biến Tịnh Thiên.

Phát triển Ngũ Thiền, các Ngài sanh vào cảnh giới của những vị Quảng Quả Thiên. Phát triển Thiền mà không đeo níu theo tâm nào thì các Ngài sanh vào cảnh Vô Tưởng Thiên, những chúng sanh không có tâm.

Các vị Bất Lai sanh vào những cảnh Phước Sanh Thiên (50).

Khi phát triển tâm thiện thuộc Vô Sắc Giới các Ngài sanh vào những cảnh giới Vô Sắc theo thứ tự tương ứng.

§10

Như vậy, phước lành cao thượng được xác định trùng hợp theo cảnh giới, tạo những quả tương đương, cả hai, lúc tái sanh và trong kiếp sống.

Ðây là bốn loại nghiệp.

Ghi chú:

[1] Trong mười loại tâm nầy, loại thứ 6 và thứ 7 được bao hàm trong tâm bố thí (dāna), số 4 và số 5 trong trì giới (sīla) và số 10 trong hành thiền (bhāvanā).

[2] Xem chương I.

[3] Uddhacca, phóng dật, quá yếu để có thể tạo nên hiện tượng tái sanh.

Chú Giải

29. Kamma, Nghiệp.

Saṁskrt là Karma, theo đúng căn nguyên là hành động, hay việc làm.

Một cách chính xác, kamma (nghiệp) là tất cả "ý muốn làm" (cetanā, tác ý) thiện hay bất thiện. Nghiệp bao gồm tất cả những gì biểu hiện bằng thân, khẩu, hay ý. Nghiệp là định luật nhân quả trong lãnh vực đạo đức. Nói cách khác, nghiệp là hành động và phản ứng của hành động trong phạm vi luân lý hay, như người Phương Tây nói, là "ảnh hưởng của hành động". Nghiệp không phải là số mạng hay tiền định. Nghiệp là phản ứng của chính hành động mình trở lại mình.

Mọi hành động cố ý, ngoại trừ hành động của một vị Phật hay một vị A La Hán, đều được gọi là Nghiệp. Chư Phật và chư vị A La Hán không còn tích trữ nghiệp mới, bởi vì các Ngài đã tận diệt vô minhái dục, hai nguồn gốc của nghiệp.

Kamma (Nghiệp) là hành động, và Vipāka (Quả, hay hậu quả) là phản ứng. Ðây là nguyên nhânhậu quả. Kamma như hột giống. Vipāka như trái cây. Khi đã gieo giống, ta sẽ gặt hái quả ở một nơi nào, vào một lúc nào, trong kiếp hiện tại hay trong một kiếp sống tương lai. Cái gì chúng ta gặt hái ngày hôm nay là hậu quả của những gì chúng ta đã gieo, hoặc trong hiện tại hoặc ở quá khứ. Kamma tự nó là một định luật, định luật nghiệp báo, và tự động tác hành trong phạm vi của nó, không có sự can thiệp nào từ bên ngoài, Ðây là định luật tác động một cách độc lập.

Khả năng tạo quả tương ứng, cố hữu dính liền và tiềm tàng trong nghiệp. Nhân tạo quả. Quả giải thích nhân. Hột giống sanh ra trái. Thấy trái biết được hột giống nào đã được gieo. Ðó là mối tương quan giữa nhân và quả. Mối tương quan giữa Nghiệp và Quả cũng dường thế ấy. Quả đã bắt đầu trổ sanh trong nhân.

Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), nghiệp báo bao gồm mười hai loại tâm bất thiện, tám loại tâm thiện, năm loại tâm thiện thuộc Sắc Giới và bốn loại tâm thiện thuộc Vô Sắc Giới.

Tám loại tâm Siêu Thế không được xem là Kamma (Nghiệp) và Vipāka (Quả), bởi vì các loại tâm nầy có khuynh hướng tận diệt căn cội của Nghiệp, và chính căn cội nầy mới tạo duyên (điều kiện) để tái sanh. Trong tám loại tâm Siêu Thế paññā (trí tuệ) chiếm phần lớn quan trọng. Trong những loại tâm tại thế cetanā (tác ý, hay ý muốn làm) là yếu tố chánh.

Hai mươi chín loại tâm nầy được gọi là Nghiệp bởi vì trong đó cố hữu tiềm tàng khả năng tái tạo. Giống như mỗi vật đều có cái bóng của nó, cùng thế ấy, mỗi hành động cố ý đồng phát sanh cùng với hậu quả phải có của nó.

Các loại tâm mà ta chứng nghiệm như hậu quả không thể tránh của những tư tưởng thiện hay bất thiện, được gọi là tâm Quả (Vipāka). Hai mươi ba (7 + 8 + 8) tâm Quả thuộc Dục Giới, năm loại tâm Quả thuộc Sắc Giới và bốn loại tâm Quả thuộc Vô Sắc Giới được gọi là Vipāka, Quả, hay hậu quả của Nghiệp.

(Xem quyển "Ðức Phật Và Phật Pháp", chương 18-21)

30. Janaka Kamma, Nghiệp Tái Tạo.

Cái sanh được tạo duyên (điều kiện) do nghiệp thiện hay bất thiện trong quá khứnổi bật, trội hơn, và mạnh hơn hết vào lúc lâm chung. Nghiệp tạo duyên cho tái sanh ấy được gọi là Janaka Kamma, Nghiệp Tái Tạo.

Cái chết của một người chỉ là sự "chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời". Mặc dầu hình thể hiện tại hư hoại, một hình thể khác -- không hoàn toàn giống hệt, mà cũng không tuyệt đối khác hẳn hình thể trước -- phát sanh, trùng hợp theo năng lực của những rung động tâm linh phát huy vào lúc lâm chung, như nghiệp lực chuyển động, thúc đẩy dòng đời trong kiếp sống mới. Chính tư tưởng cuối cùng ấy, được gọi là Nghiệp Tái Tạo, xác định trạng thái của một người trong kiếp sống kế đó. Nghiệp nầy có thể tốt hay xấu, thiện hay bất thiện.

Theo bản chú giải, Nghiệp Tái Tạo là cái gì tạo nên sắc uẩndanh uẩn, hay những yếu tố tâm linhvật chất, vào lúc được mẹ thọ thai. Chặp tư tưởng sơ khởi, gọi là paṭisandhi viññāṇa (thức nối liền, hay thức tái sanh), được tạo duyên do Nghiệp Tái Tạo (Janaka Kamma) nầy.

Cùng một lúc với thức tái sanh, paṭisandhi viññāṇa, cũng phát sanh "mười thành phần thân", "mười thành phần tính" nam hay nữ, và "mười thành phần căn"(kāya-bhāva-vatthu dassaka). "Mười thành phần thân" bao gồm bốn nguyên tố chánh yếu là nguyên tốđặc tính duỗi ra (paṭhavi, thường được gọi là đất), nguyên tốđặc tính làm dính liền (āpo, thường được gọi là nước), nguyên tốđặc tính nóng, hay lạnh (tejo, thường được gọi là lửa), và nguyên tốđặc tính di động (vāyo, thường được gọi là gió); bốn chuyển hóa của các nguyên tố nầy (uppādārūpa) là: màu sắc (vaṇṇa), mùi (gandha), vị (rasa), tinh chất dinh dưỡng (ojā), mạng căn (jīvitindriya), và thân (kāya).

"Mười thành phần tính nam hay nữ" bao gồm chín yếu tố đầu và yếu tố thứ mười là tính (bhāva) nam hay nữ.

"Mười thành phần căn" bao gồm chín yếu tố đầu và căn trú (vatthu) của tâm thức tương ứng.

Do đó ta thấy hiển nhiên là tính nam hay tính nữ của một người được xác định ngay vào lúc chúng sanh ấy được thọ thai, và tính nầy do nghiệp tạo điều kiện chớ không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên của tinh trùng và minh châu của cha và mẹ. Ðau khổ và hạnh phúc mà ta thọ cảm trong kiếp sống là hậu quả dĩ nhiên của Nghiệp Tái Tạo.

31. Upatthambhaka, Trợ Duyên.

Là cái gì đến gầnnâng đỡ Nghiệp Tái Tạo. Sự trợ duyên nầy không có tánh cách thiện hay bất thiện mà chỉ hỗ trợ và bảo trì hành động của Nghiệp Tái Tạo trong đời sống.

Tức khắc sau khi được thọ thai đến lúc chết Nghiệp Trợ Duyên lướt tới trước để yểm trợ Nghiệp Tái Tạo. Một Nghiệp Trợ Duyên thiện giúp cho sức khoẻ, tài sản, hạnh phúc v.v... Nghiệp Trợ Duyên bất thiện, trái lại, đưa đến phiền não, âu sầu v.v... cho người sanh ra với Nghiệp Tái Tạo bất thiện, thí dụ như loài thú, phải làm công việc nặng nhọc.

32. Upapīḍaka, Ngăn Trở, hay Nghịch Chiều,

Thường được gọi là Nghiệp Bổ Ðồng, có chiều hướng làm giảm suy năng lực, ngăn chận, và làm chậm trể sự trổ quả của Nghiệp Tái Tạo. Thí dụ như người kia sanh ra với Nghiệp Tái Tạo tốt, nhưng ương yếu bệnh hoạn v.v... không thể trọn hưởng những hậu quả hạnh phúc của hành động thiện quá khứ. Trái lại, trường hợp một con thú sanh ra với Nghiệp Tái Tạo bất thiện, nhưng có thể thọ hưởng một kiếp sống thoải mái, tiện nghi như được chủ tâng tiu, cho ăn sung sướng v.v... nhờ hậu quả của Nghiệp Bổ Ðồng tốt cản ngăn, không để Nghiệp Tái Tạo xấu trổ quả.

33. Upaghātaka, Tiêu Diệt, hay Nghịch Duyên.

Theo định luật Nghiệp Báo, tiềm năng của Nghiệp Tái Tạo có thể bị tiêu diệt do một năng lực nghịch chiều hùng mạnh hơn, được tạo nên trong quá khứ, tìm cơ hội để bộc phát và có thể bộc phát một cách bất ngờ. Có thể ví nghiệp nầy như một năng lực phản động cản ngăn một mũi tên bay, làm cho mũi tên dừng lại và rơi xuống đất. Nghiệp nầy được gọi là Nghiệp Tiêu Diệt, có hiệu lực mạnh mẽ hơn loại nghiệp trước vì không những cản trở mà còn tiêu diệt toàn thể năng lực của Nghiệp Tái Tạo.

Nghiệp nầy cũng không có tánh cách thiện hay bất thiện.

Trường hợp của Tỳ Khưu Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða), người âm mưu sát hại Ðức Phật và chia rẽ Tăng Già, là một thí dụ bao gồm cả bốn loại nghiệp kể trên. Nghiệp Tái Tạo thiện của ông trong quá khứ đưa ông tái sanh vào hoàng tộc. Nghiệp Trợ Duyên giúp ông tiếp tục cuộc đời vương giả trong đền đài cung điện. Nghiệp Bổ Ðồng trổ sanh khi ông phải chịu nhục nhã vì bị trục xuất ra khỏi Giáo Hội. Cuối cùngNghiệp Tiêu Diệt chấm dứt kiếp sống của ông một cách vô cùng bi đát.

34. Garuka, Trọng Nghiệp.

Có nghĩa là nghiệp nặng, hay nghiêm trọng, có thể thiện hay bất thiện. Nghiệp nầy chắc chắn trổ sanh quả ngay trong kiếp sống hiện tiền, hoặc trong kiếp kế liền kiếp hiện tại. Nếu là thiện, thì đây là loại nghiệp có tánh cách thuần túy tinh thần như trường hợp các tầng Thiền (Jhāna), ngoài ra là khẩu hoặc thân nghiệp. Theo thứ tự nặng nhẹ, có năm loại trọng nghiệp là: 1. Chia rẽ Tăng-Già, 2. Gây thương tích cho một vị Phật, 3. Sát hại một vị A La Hán, 4. Giết mẹ, và 5. Giết cha.

Nghiệp nầy cũng được gọi là Ānantariya Kamma bởi vì nhất định phải trổ quả trong kiếp sống tới, kế liền kiếp sống hiện tại. Tà Kiến Thường Xuyên (niyata micchādiṭṭhi) cũng được xem là Trọng Nghiệp.

Thí dụ như người kia đã đắc Thiền và sau đó phạm nhằm một trong các Trọng Tội thì nghiệp thiện đã tạo trước đó sẽ bị nghiệp bất thiệnnăng lực hùng mạnh nầy ngăn trở. Kiếp sống kế đó sẽ do nghiệp xấu tạo duyên.

Mặc dầu đã có phát triển các tầng Thiền, Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) phải mất cả thần thôngtái sanh vào khổ cảnh vì đã gây thương tích cho Ðức Phật và chia rẽ Tăng- Già.

Vua Ajātasattu (A Xà Thế) có thể đã chứng đắc Quả Tu Ðà Huờn nếu không phạm trọng tội giết cha. Trong trường hợp nầy, nghiệp xấu cản trở, không để ông thành tựu Ðạo Quả.

35. Āsanna, Cận Tử Nghiệp.

Là điều gì mà ta làm hay nghĩ đến liền trước khi chết. Trong hầu hết các quốc gia Phật Giáo, cái nghiệp được tạo nên vào lúc lâm chung nầy được xem là tối quan trọng, bởi vì chính nó tạo duyên cho sự tái sanh sắp đến. Vì lẽ ấy, trong các xứ Phật Giáo người ta có phong tục nhắc nhở người sắp chết những hành động lành mà người ấy đã làm trong đời, và tạo cơ hội cho người ấy tạo nghiệp thiện trước khi nhắm mắt lìa đời.

Ðôi khi người xấu có thể chết an lànhtái sanh tốt đẹp nhờ may mắn nhớ lại, hoặc được làm, một hành động thiện, ngay vào lúc lâm chung. Có tích chuyện kể rằng một người đao phủ nọ thỉnh thoảng được cơ hội để bát Ðức Sāriputta (Xá Lợi Phất). Vào lúc sắp lâm chung người nầy may mắn nhớ lại hành động thiện ấy, và nhờ đó tái sanh vào nhàn cảnh. Ðiều nầy không có nghĩa là khi hưởng được cuộc tái sanh tốt đẹp, người kia sẽ khỏi phải trả những quả xấu do hành động bất thiện trong quá khứ. Những nghiệp bất thiện tích trữ trong quá khứ sẽ trổ quả tương xứng khi có cơ hội.

Người tốt có khi cũng chết một cách bất hạnh vì bất ngờ nhớ đến một hành động bất thiện của mình, hoặc trong một hoàn cảnh bất thuận lợi thình lình có những tư tưởng không lành. Mallikā, một bà thứ phi của Vua Kosala, có kiếp sống trong sạch, nhưng vào lúc lâm chungchợt nhớ đến một lời nói dối, do đó phải chịu trạng thái đau khổ trong bảy ngày. Ðó là những trường hợp đặc biệt và ngoại lệ.

Những biến đổi bất ngờ như thế ấy giải thích vì sao có những trẻ con hư hỏng trong gia đình đạo đức, và những em hiền lành đạo đức trong gia đình hư hỏng buông lung. Thông thường tiến trình tư tưởng cuối cùng được tạo duyên do phẩm hạnh thường có của một người.

36. Āciṇṇa Kamma, Thường Nghiệp.

Là điều gì mà ta thường làm và thường nhớ đến, và những điều mà ta thường ưa thích nhiều.

Những thói quen, dầu tốt hay xấu, lâu ngày trở thành bản chất thứ nhì, và có khuynh hướng tạo nên tâm tánh của một người. Trong những lúc nhàn rỗi ta thường nghĩ đến những đặc điểm quen thuộc của mình. Cùng thế ấy, vào lúc lâm chung, ngoại trừ khi bị hoàn cảnh xen vào, thông thường ta hồi nhớ lại những hành động quen thuộc đã làm trong quá khứ.

Cunda tên đồ tể, sống ở một nơi gần tịnh thất của Ðức Phật, trước khi chết kêu la như loài thú bị giết bởi vì anh ta sinh sống bằng cách giết heo làm thịt.

Vua Duṭṭhagāmani xứ Sri Lanka (Tích Lan) có thói quen để bát chư Tăng trước khi dùng bữa. Chính loại Thường Nghiệp nầy trổ sanh vào lúc vua sắp băng hà, làm cho vua thỏa thíchtái sanh vào cung Trời Ðấu-Xuất-Ðà (Tusita).

37. Kaṭattā Kamma, Nghiệp Tích Tụ, hay Dự Trữ.

Ðúng theo nghĩa từng chữ thì danh từ nầy có nghĩa "vì đã làm". Tất cả những hành động không bao gồm trong ba loại kể trên và những hành động nào vừa thực hiện rồi sớm quên, thuộc về loại nghiệp nầy.

Kaṭattā cũng giống như ngân quỷ dự trữ riêng của một người.

38. Diṭṭhadhammavedanīya Kamma, Hiện Nghiệp.

Là điều gì thọ cảm trong kiếp sống hiện tiền. Diṭṭhadhamma có nghĩa là kiếp sống hiện tiền.

Theo Vi Diệu Pháp, nghiệp thiện hay bất thiện đều được tạo nên trong tiến trình javana. Và tiến trình nầy thường tồn tại trong bảy chặp tư tưởng, hay bảy sát-na tâm. Quả của chặp tư tưởng đầu tiên yếu nhất, có thể trổ sanh trong kiếp hiện tại, và được gọi là Hiện Nghiệp, hay nghiệp trổ quả tức khắc. Nếu chặp tư tưởng nầy không trổ quả được trong kiếp hiện tại thì được gọi là Vô Hiệu Lực (Ahosi). Chặp tư tưởng yếu kế đó trong bảy chặp của tiến trình javana là chặp thứ bảy, sẽ trổ quả trong kiếp kế liền kiếp hiện tại, và được gọi là Upapajjavedanīya Kamma (Hậu Nghiệp). Nghiệp nầy cũng trở thành vô hiệu lực nếu không trổ sanh được trong kiếp kế liền kiếp hiện tại. Quả của năm chặp còn lại trong tiến trình javana có thể trổ sanh bất cứ lúc nào, cho đến khi chứng ngộ Niết Bàn. Loại nghiệp nầy được gọi là Aparāpariyavedanīya, Nghiệp Vô Hạn Ðịnh.

Không có ai, chí đến Ðức Phật cũng vậy, có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp nầy mà ta có thể nhận lãnh bất luận lúc nào trong cuộc thênh thang dài dẳng của vòng luân hồi. Không có một loại nghiệp riêng biệt gọi là ahosi, vô hiệu lực. Nhưng khi hành động phải trổ quả trong kiếp hiện tại mà không trổ được thì gọi là ahosi.

39. Bāhullavuttito, Thông thường.

Danh từ nầy được dùng vì những hành động ấy cũng có thể được thực hiện qua những căn môn khác.

40. Kāyaviññatti

Diễn đạt ý mình bằng những cử động của thân. Có nơi gọi là thân tiêu biểu.

41. Vacīviññatti

Diễn đạt ý mình bằng lời nói. Có nơi gọi là khẩu tiêu biểu.

42. Tà Kiến

Tà Kiến là ba quan kiến sai lầm sau đây:

a. Tin rằng mọi sự vật phát sanh mà không có nguyên nhân (ahetuka diṭṭhi);
b. Tin rằng hành động dầu tốt hay xấu đều cũng không tạo quả (akiriya diṭṭhi); và
c. Tin rằng không có kiếp sống nào sau kiếp nầy (natthika diṭṭhi).

43.

Tức là quan niệm chân chánh, như nghĩ rằng để bát chư Tăng đem lại lợi ích v.v...

44.

Quả dữ của mười hai loại tâm bất thiện là bảy loại tâm quả vô nhân, có thể trổ ngay trong kiếp hiện tại.

45.

Quả lành của những hành động thiện là tám loại tâm quả vô nhân và tám loại tâm quả đẹp. Quả của tám loại tâm thiện không những có thể trổ sanh như thức tái sanh mà còn làm nhân cho những loại tâm quả khác phát sanh trong kiếp sống hiện tiền.

46. Ukkaṭṭha,

Do chữ "u" có nghĩa là hướng lên, và căn "kas" có nghĩa kéo. Kéo lên.

Một loại tâm thiện cao thượng nhất là khi nào được thực hiện với nhân thiện, trước và sau khi thực hiện hành động.

Thí dụ như để bát đến những vị tu sĩ phẩm hạnh trong sạch với những vật thực mà mình tạo nên một cách chân chánh, và sau đó không có hối tiếc, là hành động được xem là tạo nghiệp thiện "Cao Thượng".

47. Omaka, Thấp Kém.

Trong lúc để bát chư Tăng một cách trong sạch ta có thể có loại tâm thiện cùng với ba nhân. Tuy nhiên, nếu ta để bát đến những vị không có giới đức, với những vật đã được tạo nên bằng những phương tiện bất chánh, và sau đó lại ăn năn hối tiếc thì hành động đó được xem là "thấp kém" (omaka).

48.

Ðó là những pháp sư của trường Mahādhammarakkhita Thera, Tu Viện Moravapi, tại Sri Lanka (Tích Lan).

49.

Mười hai -- tám quả vô nhân (ahetuka vipāka) và, hoặc bốn tâm quả có sự xúi giục, hoặc bốn tâm quả không có sự xúi giục.

Mười -- tám quả vô nhân (ahetuka vipāka) và hai tâm có sự xúi giục, hoặc hai loại tâm không có sự xúi giục, liên hợp với tri kiến.

Tám -- tám quả vô nhân (ahetuka vipāka).

50.

Chư vị Tu-Ðà-Huờn và Tư-Ðà-Hàm đã có đắc Ngũ Thiền sanh vào cảnh Quảng Quả Thiên (Vehapphala). Nhưng chư vị Tu-Ðà-Huờn và Tư-Ðà-Hàm nào mà trau giồi tâm dứt bỏ đối với mọi kiếp sinh tồn vật chất, nghĩa là không luyến ái bất luận hình thức sinh tồn vật chất nào, thì tái sanh vào cảnh Vô Sắc Giới.

Những vị A-Na-Hàm đã có chứng đắc Ngũ Thiền và đã thành đạt Ngũ Căn tức: Tín Căn, Tấn Căn, Niệm Căn, Ðịnh Căn, và Tuệ Căn, một cách đồng đều thì tái sanh vào cảnh Vehapphala (Quảng Quả Thiên). Những vị có đức tin (sadhā) trội hơn sanh vào cảnh Aviha (cảnh giới Vô Phiền Thiên). Những vị có Tinh Tấn (viriya) trội hơn thì sanh vào cảnh Atappa (cảnh giới vắng lặng, thanh tịnh, có nơi gọi là Vô Nhiệt Thiên). Những vị có Niệm (sati) trội hơn sanh vào cảnh Sudassa, (cảnh giới đẹp đẽ, có nơi gọi là Thiện Kiến Thiên). Những vị có Ðịnh (samādhi) trội hơn sanh vào cảnh Suddassi (Thiện Kiến Thiên). Và những vị có Trí Tuệ trội hơn thì sanh vào cảnh Akaṇiṭṭha (cảnh giới tối thượng, có nơi gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên). Không có một định luật nhất định nào cho rằng chư vị A-Na-Hàm không tái sanh vào những cảnh giới thích hợp khác.

(Te pana aññattha na nibbattantīti niyamo natthi. -- Bản chú giải).

Những vị A-Na-Hàm sukha-vipassaka, tức những vị chứng đắc Ðạo Quả A-Na-Hàm "với tuệ minh sát khô" [1], đã đắc Thiền trước khi tịch diệt và sau đó tái sanh vào cảnh giới Thanh Tịnh, hay Phước Sanh Thiên.

Ghi chú:

[1] "Với tuệ minh sát khô", tức là những vị chứng đắc Thánh Ðạo và Thánh Quả chỉ bằng Tuệ Minh Sát mà không có đắc tầng Thiền (Jhāna) nào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12346)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28807)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12377)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53046)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35489)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12405)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26045)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13318)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16087)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13129)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14510)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20480)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18993)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18653)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12185)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12314)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13860)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11404)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17193)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11709)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18342)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11940)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12883)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18908)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18422)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant