Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Những Pháp Thanh Tịnh Khác Nhau

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 16460)
2. Những Pháp Thanh Tịnh Khác Nhau

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương IX: ĐỀ MỤC HÀNH THIỀN

Visuddhibhedo
Những Pháp Thanh Tịnh Khác Nhau

6.

Vipassanākammaṭṭhāne pana

1. Sīlavisuddhi, 2. Cittavisuddhi, 3. Diṭṭhivisuddhi, 4. Kaṅkhāvitaraṇa- visuddhi, 5. Maggāmaggañāṇadasanavisuddhi, 6. Paṭipadāñāṇa dassanavisuddhi, 7. Ñāṇadassanavisuddhi-cāti sattavidhena Visuddhisaṅgaho.

Aniccalakkhaṇam, Dukkhalakkhaṇaṁ, Anattā- lakkhaṇañ c'āti tīṇi Lakkhaṇāni.
Aniccānupassanā, Dukkhānupassanā, Anattā-nupassanā c'āti tisso Anupassanā.

1. Sammasanañāṇaṁ, 2. Udayavyayañāṇam, 3. Bhaṅgañāṇam, 4. Bhayañāṇaṁ, 5. Ādīnavañāṇaṁ, 6. Nibbidāñāṇaṁ, 7. Muñcitukamyatāñāṇaṁ, 8. Paṭisaṅkhā- ñāṇaṁ, 9. Saṅkhārupekkhāñāṇaṁ, 10. Anulomañāṇaṁ c'āti dasa Vipassanāñāṇāni.

Suññato Vimokkho, Animitto Vimokkho, Appa-ṇihito Vimokkho c'āti tayo Vimokkhā.

Suññatānupassanā,Animittānupassanā,Appaṇihitā- nupassanā c'āti tīṇi Vimokkhamukhāni ca veditabbāni.

Katham? Pātimokkhasaṁvara Sīlaṁ, Indriya- saṁvara Sīlaṁ, Ājīvapārisuddhi Sīlaṁ, Paccayasannissita Sīlaṁ c'āti Catupārisuddhi Sīlaṁ Sīlavissuddhi nāma.

Upacārasamādhi, Appanāsamādhi c'āti duvidho'pi Samādhi Cittavisuddhi nāma.

Lakkhaṇa-rasa-paccupaṭṭhāna-padaṭṭhāna-vasena nāma-rūpaparigaho Diṭṭhivisuddhi nāma.

Tesameva ca nāma-rūpānaṁ paccayapariggaho Kankhāvitaraṇa-visuddhi nāma.

Tato paraṁ pana tathāpariggahitesu sappaccayesu tebhūmakasaṅkhāresu atītādibhedabhinnesu khandhādina- yam' ārabbha kalāpavasena saṅkhipitvā aniccam khayaṭ- ṭhena, dukkhaṁ bhayaṭṭhena, anattā asārakaṭṭhenā'ti addhānavasena santativasena khaṇavasena vā sammasana- ñāṇena lakkhaṇattayaṁ sammasantassa tes'veva paccaya- vasena khaṇavasena ca udayabbayañāṇena udayabbayaṁ samanupassantassa ca.

Obhāso pīti passaddhi adhimokkho ca paggaho
Sukhaṁ ñāṇamupaṭṭhānamupekkhā ca nikanti c'āti.

Obhāsādi vipassanupakkilese paripanthapariggaha vasena maggāmaggalakkhaṇavavatthānaṁ Maggāmagga-Ñāṇadassanavisuddhi nāma.

Tathā paripanthavimuttassa pana tassa udayab-bayañāṇato paṭṭhāya yāvānulomā tilakkhaṇaṁ vipassanāparamparāya paṭipajjantassa nava vipassanā-ñāṇāni Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi nāma.

Tass'evaṁ paṭipajjantassa pana vipassanāparipā- kamāgamma idāni appanā uppajjissatittī bhavaṅgaṁ vocchinditvā uppannamanodvārāvajjanānantaraṁ dve tīṇī vipassanācittāni yaṁ kiñci aniccādilakkhaṇamārabbha parikammopacārānulomanāmena pavattanti. Yā sikhā-ppattā sā sānulomasaṅkhārupekkhāvuṭṭhānagāminī- vipassanā'ti ca pavuccati. Tato paraṁ gotrabhūcittaṁ nibbānam'ālambitvā puthujjanagottamabhibhavantaṁ ariyagottamabhisambhontañ ca pavattati. Tass'ānantaram' eva maggo dukkhasaccaṁ parijānanto samudayasaccaṁ pajahanto nirodhasaccaṁ sacchikaronto maggasaccaṁ bhāvanāvasena appanāvīthim' otarati. Tato paraṁ dve tīni phalacittāni pavattitvā bhavaṅgapāto'va hoti. Puna bhavaṅgaṁ vocchinditvā paccavekkhaṇañā-ṇāni pavattanti.

Maggaṁ phalañ ca nibbānaṁ paccavekkhati paṇḍito
Hīne kilese sese ca paccavekkhati vā navā.
Chabbisuddhikamen'evaṁ bhāvetabbo catubbidho
Ñāṇadassanavisuddhi nāma maggo pavuccati.
Ayam'ettha visuddhibhedo.

§6

Trong công trình hành thiền Minh sát (24) có bảy giai đoạn "Thanh Tịnh":

1. Giới Tịnh, 2. Tâm Tịnh, 3. Kiến Tịnh, 4. Ðoạn Nghi Tịnh, 5. Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh, 6. Ðạo Tri Kiến Tịnh, và 7. Tri Kiến Tịnh.

Có ba Ðặc Tướng:

1. Ðặc tướng Vô Thường (25), 2. đặc tướng Ðau Khổ (26), và 3. đặc tướng Vô Ngã (27).

Có ba pháp Quán Niệm:

1. Quán niệm đặc tướng Vô Thường, 2. quán niệm đặc tướng Ðau Khổ, và 3. quán niệm đặc tướng Vô Ngã.

Có mười loại Tuệ Giác:

1. Tuệ quán trạch (28), 2. Tuệ sanh diệt, liên quan đến sự phát sanh và hoại diệt (của những sự vật được cấu tạo), 3. Tuệ diệt, liên quan đến sự phân tán (của sự vật), 4. Tuệ kinh hãi, nhận thức rằng (tình trạng phân tán của sự vật) là đáng kinh sợ, 5. Tuệ hiểm nguy, nhận thức rằng sự vật (đáng kinh sợ) là tai hại, hiểm nguy, 6. Tuệ chán nản, nhận thức rằng (các sự vật hiểm nguy) là đáng nhờm chán, 7. Tuệ muốn giải thoát, liên quan đến ý muốn thoát ra khỏi các sự vật ấy, 8. Tuệ suy tư, suy gẫm và quán xét (29), 9. Tuệ Xả đối với các vật cấu tạo (30), và 10.Tuệ thuận thứ (31).

Có ba đường lối Giải Thoát (32):

1. Giải Thoát xuyên qua đường lối quán niệm về Hư Không (33), 2. Giải Thoát qua đường lối quán niệm về Vô Hình Tướng (34), và 3. Giải Thoát qua đường lối suy niệm về Vô Nguyện (35) .

ba cửa Giải Thoát:

1. Quán tưởng về Hư Không, 2. Quán tưởng về Vô Hình Tướng, và 3. Quán tưởng về Vô ước Nguyện.

Bằng cách nào?

Giới Tịnh (36) bao gồm bốn loại giới tuyệt hảo [1] là:

1. Giới luật liên quan đến những Giới Căn Bản, 2. Giới luật liên quan đến sự tự chế, 3. Giới luật liên quan đến sự sinh sống trong sạch, 4. Giới luật liên quan đến bốn vật dụng cần thiết.

Tâm Tịnh (37) bao gồm hai loại trụ tâm, đó là "cận định" và "toàn định" hay pháp hành nhằm "hoàn toàn kiên cố an định tâm".

Kiến Tịnh (38) là sự hiểu biết danh và sắc liên quan đến những đặc tướng, đến cơ năng, đến phương cách hiện khởi, và đến nguyên nhân kế cận.

Ðoạn Nghi Tịnh (39) là sự thấu triệt nguyên nhân của chính danh và sắc ấy.

Sau khi đã thấu triệt những nguyên nhân, vị hành giả quán xét các phương thức hợp thành từng uẩn v.v.., trình bày từng nhóm các sự vật cấu tạo trong tam giới. Các pháp hữu vi nầy phát sanh do nguyên nhân, khác biệt nhau tùy quá khứ v.v.. và đã được thấu hiểu như trên. Giờ đây hành giả quán tưởng đến ba đặc tướng --vô thường trong ý nghĩa hoại diệt, đau khổ trong ý nghĩa đáng kinh sợ, và vô ngã trong ý nghĩa không có thể chất -- bằng cách nhận xét thời gian tồn tại, sự liên tục không gián đoạn, và tánh cách tạm bợ nhất thời (của các pháp ấy). Người hành thiền dựa vào sự nhận xét các nguyên nhân và tánh cách tạm bợ (của các pháp hữu vi), để quán tưởng về hiện trạng sanh, diệt của sự vật bằng trí tuệ như trên. Lúc bấy giờ phát sanh đến hành giả: -- một vầng hào quang, lòng hoan hỷ thỏa thích, tâm yên tĩnh, đức tin mãnh liệt, tinh tấn chuyên cần, trạng thái an lạc hạnh phúc, trí tuệ sáng suốt, tâm niệm vững chắc, và tâm xả quân bình, và tâm ưa thích (trạng thái ấy).

Kiến Tịnh, quan kiến trong sạch, trong công trình phân biện chân chánh cái nào là Con Ðường (Ðạo) và cái nào không-phải-Con-Ðường (40), là xác định cái nào là những đặc tính của Con Ðường và cái nào không phải là đặc tính của Con-Ðường, bằng cách hiểu biết rằng (những ấn chứng như) hào quang v.v.. là chướng ngại của tuệ minh sát. Loại bỏ những chướng ngại trên, hành giả suy niệm về ba Ðặc Tướng. Giờ đây, phát sanh đến vị hành giả, bắt đầu bằng tuệ sanh diệt, tiến dài đến tuệ thuận thứ, trong một luồng quán niệm không gián đoạn, chín loại Tuệ Minh Sát. Kiến Tịnh, phân biện chân chánh phương thức (41), có nghĩa là chín loại tuệ giác ấy.

Sự Chứng Ngộ

Khi thực hành quán niệm như vậy, do tình trạng thuần thục chín mùi của tuệ minh sát (hành giả cảm nhận), "Giờ đây sự phát triển (con đường) (42) sẽ khởi sanh". Vào lúc ấy luồng hộ kiếp ngưng lại, ý môn hướng tâm khởi phát, tiếp theo sau là hai hoặc ba (sát-na) minh sát tâm, lấy bất luận Ðặc Tướng nào như vô thường v.v.. làm đối tượng. Những chặp tư tưởng nầy được gọi là "sơ khởi", "cận hành", và "thuận thứ" (43). Tuệ xả đối với các pháp hữu vi nầy (tức tâm xả trước các hành), cùng với tuệ thuận thứ, khi đã thuần thục tuyệt hảo, cũng được gọi là "Tuệ giác hiện khởi dẫn đến Con Ðường (44)". Sau đó khởi sanh chặp tâm Chuyển Tánh (Gotrabhū-consciousness) (45), lấy Niết Bàn làm đối tượng, vượt thoát ra khỏi dòng phàm tục, và chuyển bước vào dòng dõi các bậc Thánh. [2]

Tức khắc sau chặp tư tưởng ấy, Ðạo (Con Ðường của tầng thánh Nhập Lưu), chứng ngộ Chân Lý về sự Ðau Khổ, đoạn diệt Chân Lý về Nguyên Nhân sanh Khổ, chứng ngộ Chân Lý về sự Chấm Dứt Ðau Khổ, và phát triển Con Ðường Diệt Khổ, nhập vào tiến trình định tâm siêu thế.

Sau chặp tâm Ðạo, hai hoặc ba chặp tâm Quả phát sanh và tan biến trở lại trong chặp hộ kiếp (bhavaṅga)(46). Ðến đây, chặp tâm hộ kiếp dừng lại và tuệ suy tư khởi phát.

Vị hành giả có đủ trí tuệ bấy giờ suy tư (47) về Ðạo, Quả, Niết Bàn, về những ô nhiễm mà mình đã diệt trừ, và hoặc suy tư hoặc không, về những ô nhiễm còn lại.

Như vậy Con Ðường gồm bốn giai đoạn cần phải được tuần tự phát triển bằng sáu pháp thanh tịnh được gọi là "Ðạo Tri Kiến Tịnh".

Ðây là phần đề cập đến "Thanh Tịnh", tức trạng thái trong sạch.

Ghi chú:

[1] Bốn loại giới tuyệt hảo ấy là Pātimokkhasaṁvara, thường được gọi là Tứ Thanh Tịnh giới.

[2] Lộ trình tư tưởng của vị Nhập Lưu diễn tiến như sau:

***

***

***

***

***

***

***

***

Manodvārāvajjana
(Ý môn hướng tâm)

parikamma
(sơ khởi)

upacāra
(cận hành)

anuloma
(thuận thứ)

gotrabhū
(chuyển tánh)

magga
(đạo)

phala
(quả)

bhavaṅga
(hộ kiếp)

Chú Giải

24. Vipassanā, Minh Sát

là giai đoạn thứ ba và là giai đoạn cuối cùng của Thánh Ðạo (Giới, Ðịnh, Tuệ). Mục tiêu cứu cánh của Minh Sátthấu triệt sự vật đúng như sự vật thật sự là vậy.

25. Anicca, Vô Thường

bản chất phù du tạm bợ của cả hai, danh và sắc. Biến đổiđặc tính của những sự vật được cấu tạo. Tất cả các pháp hữu vi [*], tức những vật được cấu tạo, đều không ngừng biến chuyển, không thể ở yên bất động trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Trong thực tế, tâm biến đổi càng nhanh hơn vật chất. Thông thường sắc tồn tại trong thời gian mười bảy chặp tư tưởng. Các Chú Giải ghi rằng trong thời gian một chớp nhoáng trên trời, hằng tỷ, tỷ chặp tư tưởng có thể phát sanh.

(Lời người dịch). Các pháp hữu vi -- cũng được gọi là các "hành", hay những sự vật được cấu tạo (conditioned things), là những gì cần phảinhân duyên nào khác tạo điều kiện mới hiện hữu. Trên thực tế trong thế gian hiện tượng nầy, tất cả các pháp, tinh thần hay vật chất, đều là pháp hữu vi, phải được cấu tạo mới hiện hữu. Vạn pháp do duyên sanh.

26. Dukkha, Khổ

Tất cả các pháp hữu vi đều phải chịu đau khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Sống chung với những gì (người hay vật) mình không thích là khổ. Xa lìa những gì thân yêu là khổ. Không thành đạt những gì mình mong muốn là khổ. Tóm tắt, ngũ uẩn thủ (tức bám níu vào ngũ uẩn) là khổ.

27. Anattā, Vô Ngã

Là điểm nòng cốt của Phật Giáo. Cũng như không có một thực thể thường còn trong sắc, cùng thế ấy, không có một thực thể không biến đổi trong danh, được nghĩ đến như một "tự ngã" hay "linh hồn". Trong tất cả những gì tại thếsiêu thế, hữu vivô vi, không có một linh hồn trường cửu. Vì lẽ ấy trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) Ðức Phật tuyên ngôn "sabbe dhammā anattā" -- tất cả các pháp đều vô ngã. Ðối với hai đặc tướng Anicca và dukkha (vô thường và khổ) Ðức Phật dạy rằng tất cả các pháp "hữu vi" (saṅkhāra) đều vô thường, .. đều khổ. Nhưng với đặc tướng vô ngã, Anattā, Ðức Phật dùng danh từ "dhammā" chỉ rằng tất cả các pháp -- dầu hữu vi hay vô vi -- đều vô ngã.

Ta có thể ghi nhận rằng chính sau khi nghe bài kinh "Anattalakkhana Sutta", Vô Ngã Tướng, đề cập đến lý vô ngã, mà năm vị đệ tử đầu tiên của Ðức Phật đắc Quả A La Hán. Thông thường, hành giả không hành cả ba đặc tướng cùng một lúc. Trong ba, hành giả chỉ chọn đặc tướng nào thích hợp với mình nhất. Lối giải thoát thành đạt được nhờ áp dụng đặc tướng nào có tên tùy trường hợp.

28. Sammasanañāṇa, Tuệ Quán Trạch

Theo nghĩa đen là "vận dụng tuệ giác", trạch quán, sự quán xét, tìm hiểu các uẩn hổn hợp (kalāpavasena).

29. Paṭisaṅkhāñāṇa, Tuệ Suy Tư

Suy gẫm và quán xét trở lại các pháp hữu vi nhằm tìm hiểu ý nghĩa và thoát ra khỏi đó.

30. Saṅkhārupekkhāñāṇa, Tuệ Xả Hành

Là tâm xả, hoàn toàn bình thản đối với các "hành" (saṅkhārā), tức đối với pháp hữu vi. Không luyến ái bám níu cũng không phiền muộn giận hờn. Ðây là kết quả của công trình phát triển các Tuệ Giác trên.

31. Anulomañāṇa, Tuệ Thuận Thứ

Tuệ giác nầy được thành tựu nhờ đã viên mãn hoàn tất chín loại tuệ trước đó. Ðuợc gọi là thuận thứ bởi vì một đàng, chính nó phù hợp với 37 Yếu Tố của sự Giác Ngộ (37 bồ đề phần) và đàng khác nó giúp cho hành giả hội đủ khả năng để tiến lên con đường cao hơn.

32. Vimokkha, Ðường Lối Giải Thoát

Ðược gọi như vậy bởi vì pháp nầy giúp giải thoát chúng sanh ra khỏi mười Thằng Thúc (tức mười dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng luân hồi) v.v..

33. Suññata, Hư Không

Không có một linh hồn. Sự giải thoát thành tựu được do nhờ hành thiền, quán niệm về lý "vô ngã" (anattā) được gọi là Suññatavimokkha.

34. Animitta, Vô Hình Tướng

Không có những dấu hiệu của sự thường còn, v.v.. Sự giải thoát thành tựu được do nhờ hành thiền, quán niệm về lý "vô thường" (anicca) được gọi là Animittavimokkha.

35. Appaṇihita, Vô Nguyện

Không có sự khát khao ham muốn, không ước nguyện điều gì. Sự giải thoát thành tựu được do nhờ hành thiền, quán niệm về lý "đau khổ" (dukkha) được gọi là Appaṇihitavimokkha.

36. Sīlavisuddhi, Giới Tịnh.

Giới đức trong sạch là "Thanh Tịnh" đầu tiên trong bảy "Thanh Tịnh". Giới thanh tịnh gồm bốn loại, Tứ Thanh Tịnh Giới, tất cả đều liên quan đến đời sống của một vị tỳ khưu.

Loại giới thanh tịnh đầu tiên là Pātimokkha- saṁvarasīla, Giới Bổn Thanh Tịnh. Những gì nâng đỡ cứu giúp, không để cho người nghiêm chỉnh hành trì rơi vào bốn khổ cảnh" là ý nghĩa của danh từ "Pātimokkha". "Pā" cũng đuợc các nhà chú giải giải thíchgiáo huấn của Ðức Phật. Atipamokkha là cực kỳ quan trọng. Như vậy Pātimokkha có nghĩa là giới luật căn bản, nền tảng cốt yếu của giáo huấn, thường được gọi là "Giới Bổn", bao gồm 220 giới luật [*] mà tất cả các vị tỳ khưu, và mỗi vị, đều phải nghiêm túc giữ gìn trong sạch. Vì những giới nầy giúp tiết chế, tránh có những hành động bất thiện v.v.. nên được gọi là "saṁvara". "Sīla" được dùng trong nghĩa "bình tĩnh" (samādhāna) và "nâng đỡ" (upadhāraṇa). Ðược gọi như vậy vì Giới Bổn có chiều hướng ghép những hành động bằng thân, khẩu, ý vào khuôn khổ kỷ cương, và cũng vì Giới Bổn tác hành như yếu tố nâng đỡ những phẩm hạnh khác.

[*] Nếu tính luôn bảy phương cách giàn xếp những cuộc tranh cãi (adhikaraṇa samatha dhamma) thì có 227 giới.

Giới thứ nhì là Indriyasaṁvarasīla, Thu Thúc Căn Tịnh, giúp thu thúc lục căn. Giới thứ ba là Ājīvapārisuddhi- sīla, Chánh Mạng Giới Tịnh, giúp vị tỳ khưu giữ gìn chánh mạng cho được trong sạch. Trong khi thọ lãnh bốn món vật dụng cần thiết cho đời sống, vị tỳ khưu không nên có những phong độ không thích nghi. Paccayasannissitasīla, giới thanh tịnh thứ tư, liên quan đến việc xử dụng bốn vật dụng cần thiết là y, thức ăn, chỗ ở và thuốc men, một cách không ích kỷ mà với tâm rộng lượng, nghĩ đến việc chia xẻ với người khác.

37. Cittavisuddhi, Tâm Tịnh,

là "Thanh Tịnh" thứ nhì. Ðây là tâm trong sạchhành giả thành đạt nhờ công phu trau giồi và phát triển các tầng Thiền, tạm thời đè nén các Triền Cái, những chướng ngại tinh thần. Tâm trong sạch cũng giống như mặt gương được lau chùi bóng loáng, có thể phản chiếu sự vật một cách trung thực, đúng trong bối cảnh của nó. Với tâm thanh tịnh hành giả có thể nhìn thấy sự vật đúng thật như sự vật là vậy.

38. Diṭṭhivisuddhi, Kiến Tịnh,

là "Thanh Tịnh" thứ ba. Ðược gọi như vậy vì sự trong sạch nầy thanh lọc, không để cho tâm có những ý tưởng sai lầm dung nạp lý thuyết về một linh hồn trường cửu. Sự hiểu biết chân chánh nầy là kết quả của công trình quán trạch phần tâm linh và phần cơ thể vật chất nầy theo những đặc tướng (lakkhaṇa), theo cơ năng và những đặc tính chánh yếu (rasa), theo phương cách biểu lộ (paccupaṭṭhāna), và theo nguyên nhân kế cận (padaṭṭhāna) của danh và sắc.

39. Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi, Ðoạn Nghi Tịnh,

là "Thanh Tịnh" thứ tư. Trạng thái trong sạch nầy có chiều hướng vượt qua khỏi những mối hoài nghi về nhân và quả, về quá khứ, hiện tại, và vị lai. Ðược gọi là thanh tịnh, hay trong sạch, bởi vì nó gội rửa bợn nhơ của những ý niệm lầm lạc về sự "rủi may", "không nhân, không quả" v.v..

Nhằm thành tựu trạng thái thanh tịnh nầy hành giả hành thiền quán tưởng về những nguyên nhân khác nhau có chiều hướng tạo nên danh và sắc hiện tại, và những nguyên nhân nuôi dưỡng bảo trì nó trong hiện tại. Hành giả hiểu biết rằng vào lúc được thọ thai vào bụng mẹ, danh và sắc hiện tại được vô minh, ái, thủ và Nghiệp tạo duyên, và trong đời sống sắc nầy được nghiệp, tâm, hiện tượng thời tiết và vật thực tạo điều kiện để sống. Còn danh, phần tâm linh, đuợc bảo trì nhờ lục căn, những giác quan, và lục trần, những đối tượng của giác quan. Như vậy hành giả chứng ngộ được chân lý thâm diệu thứ nhì về nhân sanh khổ của Tứ Diệu Ðế và tự mình vượt thoát ra khỏi mọi hoài nghi.

40. Maggāmaggañāṇadassanavisuddhi, Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh, là "Thanh Tịnh" thứ năm.

Vị hành giả đã thanh lọc mọi bợn nhơ hoài nghi, tiếp tục hành thiền với sự hiểu biết sâu sắc hơn về ba đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã. Hành giả nhận thức rằng đời sống chỉ là một luồng trôi chảy, một sự di động liên tục không gián đoạn. Không thể có hạnh phúc thật sự, bởi vì mỗi hình thức vui thú chỉ là dấu hiệu báo tin cho biết đau khổ sắp đến. Cái gì không thường còn mà luôn luôn biến chuyểnnguyên nhân đưa đến đau khổ, và nơi nào biến đổiđau khổ chiếm ưu thế thì không thể có một tự ngã trường tồn, hay một linh hồn. Trạng thái phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi (những sự vật được cấu tạo) trở thành rõ rệt hiển nhiên đối với hành giả. Trong khi để hết tâm trầm tư thấm sâu vào công phu hành thiền hành giả thấy một vầng hào quang (obhāso) phát tủa ra từ thân mình như kết quả của tuệ giác sâu sắc. Hành giả cũng chứng nghiệm một loại phỉ (pīti), lạc (sukha), và khinh an, cảm nghe thoải mái nhẹ nhàng (passaddhi), chưa từng bao giờ được hưởng. Hành giả cũng trở nên rất chuyên cần (paggaho) và tâm hoàn toàn bình thản (upekkhā, tâm xả). Tâm đạo của hành giả trở nên càng mãnh liệt nhiệt thành hơn (adhimokkha), tâm niệm (sati) tăng trưởng vững mạnh, và trí tuệ (ñāṇa) càng sáng suốt. Hành giả càng tận lực chuyên cần với ý niệm sai lầm là mình đã chứng đắc Ðạo Quả Thánh, nhất là khi chứng nghiệm được hào quang, trạng thái tâm mà mình nóng lòng khao khát ước mong (nikanti) thành tựu. Nhưng không bao lâu sau, hành giả nhận thức rằng công phu cố gắng trên chỉ là những trở ngại (upakilesa, tùy phiền não) trên đường đến tuệ minh sát, và chính mình không thật sự chứng Thánh Quả. Hiểu biết vậy, hành giả cố gắng phân biệt đường chánh và nẽo tà (maggāmaggañāṇadassana, đạo phi đạo tri kiến). Ðuợc gọi là sự hiểu biết "thanh tịnh" (visuddhi) bởi vì tuệ giác nầy thanh lọc mọi ý niệm lầm lạc về cái gì thật sự là "con đường". Hành giả hiểu biết "Cái nầy đúng là con đường chân chánh, cái kia là con đường sai lầm".

41. Paṭipadāñāṇadassanavisuddhi, Ðạo Tri Kiến Tịnh

là "thanh tịnh" thứ sáu. Danh từ nầy áp dụng chung cho chín loại tuệ bắt đầu bằng tuệ giác liên quan đến sự phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vichấm dứt với tuệ thuận thứ, vốn khởi sanh tức khắc trước chặp Chuyển Tánh (Gotrabhū). (Xem trang 503, ghi chú #1).

42. Appanā, là Con Ðường siêu thế (lokuttaramagga).

43. Anuloma, Thuận Thứ.

Xem chương IV, và ghi chú #1, cùng chương nầy.

44. Vuṭṭhānagāminīvipassanā

là cái tên đặt chung cho Saṅkhārupekkhāñāṇa, tuệ xả hành, và Anulomañāṇa, tuệ thuận thứ, là hai trong mười loại tuệ. Ðược gọi như vậy bởi vì nó dẫn đến Con Ðường thoát ra khỏi những khổ cảnh và những đặc tính của các pháp hữu vi.

45. Gotrabhū, Chuyển Tánh

theo nghĩa đen là "khắc chế dòng dõi phàm tục". Ðối tượng của chặp tư tưởng nầy là Niết Bàn, nhưng sự chứng ngộ Niết Bàn bằng cách tận diệt những khát vọng thật sự khởi phát trong sát-na Ðạo, tức khắc theo liền đó. Cũng chặp tư tưởng cá biệt nầy mà nằm trong ba tầng Thánh cao hơn -- tức Tư Ðà Hàm Ðạo, A Na Hàm Ðạo và A La Hán Ðạo -- được gọi là "vodāna" (tinh khiết) bởi vì vào lúc bấy giờ hành giả đã là một bậc Thánh Nhân.

46.

Tức khắc theo sau chặp tư tuởng Gotrabhū (Chuyển Tánh) liền khởi sanh sát-na Ðạo của tầng Tu Ðà Huờn. Chính vào giai đoạn nầy mà hành giả thấu hiểu Chân Lý Thâm Diệu về sự Ðau Khổ (Khổ Ðế), tận diệt ái dục, nguyên nhân sanh khổ, và thật sự chứng ngộ Niết Bàn lần thứ nhất trong đời. Tám chi của Bát Thánh Ðạo cũng được phát triển đầy đủ vào giai đoạn nầy. Chặp tư tưởng đặc biệt nầy có tên là "Sotāpatti magga", Nhập Lưu Ðạo, hay Tu Ðà Huờn Ðạo. "Sota" ở đây có nghĩa là dòng suối chảy đến Niết Bàn. Ðó là Bát Thánh Ðạo. "Āpatti" có nghĩa là nhập vào lần đầu tiên. Ðược gọi là "Magga", Ðạo, bởi vì khi khởi sanh nó diệt trừ các khát vọng. Chặp tư tưởng Ðạo nầy chỉ phát sanh một lần duy nhất trong một đời, và tức khắc tiếp liền theo sau là hai hoặc ba sát-na "Quả" (Phala), trước khi luồng tâm trôi chảy vào bhavaṅga. Vì lẽ ấy Giáo Pháp (Dhamma) được gọi là "akālika", được chứng ngộ tức khắc, không đợi thời giờ.

47. Paccavekkhaṇañāṇāni, Tuệ Ôn Duyệt.

Thông thường sau mỗi tầng trong bốn tầng Thánh hành giả suy tư về Ðạo và Quả mà mình vừa thành đạt, về Niết Bàn mà mình vừa chứng ngộ, về những ô nhiễm mà mình đã diệt trừ, và trong trường hợp của những vị Thánh của ba tầng đầu, về những ô nhiễm mà mình còn phải tận diệt. Một vị A La Hán đã không còn ô nhiễm để tận diệt thì hiểu rõ rằng mình đã giải thoát.

Có tất cả 19 loại tuệ suy tư ôn duyệt như vậy, 15 thuộc về ba tầng Thánh đầu tiên, và 4 thuộc tầng Thánh cuối cùng. Câu chữ Pāli "n'āparaṁ itthatthāya", không còn trở lại trạng thái nầy nữa, hàm xúc tiến trình suy tư nầy.

48. Ñāṇadassanavisuddhi, Tri Kiến Tịnh

Là tên của tuệ giác, tức một trạng thái tâm của trí tuệ, nằm trong chặp tâm Ðạo. Sự hiểu biết nầy được gọi là "thanh tịnh" bởi vì nó được thanh lọc hoàn toàn, không còn mảy may dính chút bợn nhơ hay ô nhiễm nào, do kết quả của sự chứng ngộ Tứ Diệu Ðế, bốn Chân Lý Thâm Diệu. Ðây là "thanh tịnh" thứ bảy.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14739)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11804)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12741)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10319)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12046)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15267)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11053)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10496)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12451)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16417)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14287)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11760)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14774)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16796)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11554)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12718)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11328)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12035)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52064)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13956)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11419)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13146)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12763)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13196)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17883)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12433)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12636)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54182)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14409)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9919)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13812)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57927)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14473)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20119)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13757)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15387)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17480)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13298)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11908)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13474)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14649)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12469)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12149)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12050)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12524)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13652)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13310)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25565)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12167)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14521)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11829)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42043)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28302)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38775)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14708)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12685)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16232)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant