Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Thanh Tịnh Ðạo

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 17139)
5. Thanh Tịnh Ðạo

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương IX: ĐỀ MỤC HÀNH THIỀN

Thanh Tịnh Ðạo

Khi đã phát triển các tầng Thiền (Jhānas), tâm của hành giả trở nên trong sạch như mặt gương được lau chùi bóng loáng, phản chiếu mọi sự vật một cách rõ ràng, trung thực. Tuy nhiên, những tư tưởng xấu xa bất tịnh vẫn chưa hoàn toàn bị loại trừ, bởi vì tâm định chỉ tạm thời đè nén những khuynh hướng tâm tánh bất thiện mà không tận diệt. Các tâm bất thiện nầy có thể trồi lên mặt và tái phát bất cứ lúc nào, một cách bất ngờ.

Giới điều hòa hành động và lời nói; Ðịnh kiểm soát tâm; nhưng chính Tuệ (paññā), giai đoạn cuối cùng, giúp người có nguyện vọng tiến triển từ phàm trở nên thánh, tận diệt mọi ô nhiễm mà tâm Ðịnh (Samādhi) tạm thời khắc phục.

Trước tiên, hành giả trau dồi quan kiến trong sạch, "Kiến Tịnh" (diṭṭhi visuddhi) [1] để nhận thức thực tướng của vạn pháp, thấy sự vật đúng như sự vật là vậy. Với tâm nhứt điểm hành giả phân táchquan sát cái gọi là chúng sanh. Công trình quán sáttìm hiểu nầy cho thấy rằng cái được gọi là "Ta" chỉ là sự cấu hợp phức tạp của tâm và cơ thể vật chất, danh và sắc, cả hai đều ở trong trạng thái luôn luôn biến chuyển đổi thay, luôn luôn trôi chảy như một dòng suối trường lưu bất tức.

Khi đã thành đạt quan kiến chân chánh về bản chất thật sự của cái gọi là chúng sanh, và hoàn toàn dứt khoát với mọi ảo tưởng về một linh hồn trường cửu, hành giả cố tìm những nguyên nhân sanh ra cái "Ta", và nhận định rằng trong thế gian nầy vạn pháp đều do duyên sanh, không có chi tự nhiên phát khởi mà không tùy thuộc nơi một hay nhiều điều kiện, trong quá khứ hay ở hiện tại. Kiếp sống hiện tiền là do vô minh (avijjā), ái (taṇhā), thủ (upādāna), nghiệp (kamma) trong quá khứ, và vật thực trong kiếp sống hiện tại. Do năm nguyên nhân ấy cái gọi là chúng sanh được cấu tạo, và cũng như nguyên nhân quá khứ tạo duyên cho hiện tại, cùng thế ấy, nhân hiện tại tạo điều kiện cho tương lai. Chú tâm suy niệm như thế ấy hành giả vượt thoát ra khỏi mọi hoài nghi về quá khứ, hiện tại và tương lai [2].

Tiếp theo, hành giả suy niệm rằng tất cả những vật được cấu tạo, hay các pháp hữu vi, đều vô thường (anicca), phải chịu đau khổ (dukkha), và không có một linh hồn trường cửu (anattā). Hướng tầm mắt về bất luận nơi nào, hành giả chỉ thấy ba đặc tướng ấy phát lộ rành mạch, rõ ràng, không thể lầm lẫn. Hành giả nhận thức rằng đời sống chỉ là một sự trôi chảy, một di động liên tục do những nguyên nhân từ bên trong và bên ngoài chi phối, tạo duyên. Dầu ở các cảnh trời hay trên quả địa cầu hành giả không tìm được nơi nào có hạnh phúc thật sự, bởi vì mọi sự vật đều không ngừng chuyển biến đổi thay.

Trong lúc cố tâm chuyên chú hành thiền, suy tưởng về bản chất thật sự của đời sống như thế, sẽ có một ngày kia, trước sự ngạc nhiên của chính mình, hành giả chứng kiến một ánh hào quang (obhāsa) phát tủa ra từ thân mình. Lúc ấy hành giả chứng nghiệm một trạng thái an lạc thỏa thích, một cảm thọ hạnh phúc vắng lặng trước kia chưa từng bao giờ được biết. Hành giả càng tinh tấn củng cố tâm định, tâm đạo càng nhiệt thành và tăng trưởng vững chắc, chánh niệm càng trở nên rõ ràng toàn hảo, và tuệ Minh Sát càng trở nên sâu sắc bén nhạy một cách lạ thường. Lầm tưởng mức tiến bộ khá cao ấy là Ðạo Quả Thánh, nhất là vì thấy có hào quang, hành giả phát tâm ưa thích trạng thái tinh thần ấy. Nhưng rồi, sớm nhận thức rằng những hiện tượng mới mẻ ấy chỉ làm trở ngại tiến bộ tinh thầnđạo đức, hành giả trau giồi và phát triển trạng thái trong sạch của tuệ giác liên quan đến "Con Ðường và Không-Phải-Con-Ðường" [3].

Ðã nhận thức con đường chân chánh, hành giả gom tâm quán tưởng về sự phát sanh (udaya ñāṇa, tuệ sanh) và sự hoại diệt (vaya ñāṇa, tuệ diệt) của tất cả các pháp hữu vi. Trong hai trạng thái sanh và diệt, sự hoại diệt hiển lộ nổi bậtchiếm ưu thế hơn nên dần dần gây ấn tượng mạnh hơn trong tâm hành giả, bởi vì sự biến chuyển được nhận thấy hiển nhiênrõ ràng hơn sự trở thành. Do đó, hành giả hướng tâm chú niệm của mình về sự phân tán của sự vật (bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt) và nhận định rằng cả hai, danh và sắc, hai thành phần cấu tạo cái gọi là chúng sanh đều ở trong trạng thái luôn luôn đổi thay, trôi chảy, không thể tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Bây giờ phát sanh đến hành giả sự hiểu biết rằng tất cả những gì bị phân tán đều đáng sợ (bhaya ñāṇa, tuệ kinh hãi). Toàn thể thế gian phát hiện trước mắt hành giả như một đống củi đang phừng cháy, một nguồn hiểm họa. Kế đó hành giả suy tưởng về tánh chất rách nát, đổ vỡ, và tạm bợ nhất thời (ādīnava ñāṇa, tuệ hiểm nguy) của thế gian đáng kinh sợ nầy, có cảm giác nhàm chán nó (nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản) và nảy sanh ý muốn tẩu thoát ra khỏi đó (muñcitukamyatā ñāṇa, tuệ muốn giải thoát).

Hướng về đối tượng ấy, hành giả chăm chú đặt chánh niệm vào ba đặc tướng vô thường, khổ, và vô ngã (paṭisaṅkhā ñāṇa, tuệ suy tư) và sau đó phát triển tâm xả trọn vẹn, hoàn toàn thản nhiên đối với các pháp hữu vi (tức các hành) -- không luyến ái cũng không ghét bỏ, hay bất toại nguyện -- đối với bất luận sự việc gì trên thế gian (upekkhā ñāṇa, tuệ xả) [4].

Khi đạt đến mức độ tinh thần nầy, hành giả chọn một trong ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã, cái nào thích hợp với mình nhất, và gia công khai triển minh sát theo chiều hướng ấy cho đến ngày vẻ vang tươi sáng mà hành giả thành tựu mục tiêu cuối cùng -- Ðạo Quả Niết Bàn [5], mục tiêu cứu cánh cùng tột.

"Cũng như người đi trong đêm tối, nhờ trời chớp nhìn thấy quang cảnh quanh mình rồi giữ lại hình ảnh ấy trước mắt một ít lâu, cùng thế ấy, do cái chớp bật sáng lên của tuệ giác, hành giả nhoáng chứng ngộ Niết Bàn một cách rõ ràng, và hình ảnh ấy lưu niệm trong tâm, không còn phai mờ nữa [6]".

Vị hành giả chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên được gọi là Tu Ðà Huờn (Sotāpanna, Nhập Lưu) -- người bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn lần đầu tiên. Dòng suối là Bát Chánh Ðạo.

Vị Tu Ðà Huờn (Nhập Lưu) không còn là người phàm tại thế (puthujjana) nữa mà đã trở thành bậc Thánh (Ariya).

Khi chứng đắc tầng Thánh đầu tiên vị Thánh Nhập Lưu tận diệt ba Thằng Thúc (saṁyojana), cũng gọi là Kiết Sử, tức là ba trong mười dây trói buộc cột trói chúng sanh vào những kiếp sinh tồn của vòng luân hồi. Ba dây trói buộc ấy là:

1. Sakkāya-diṭṭhi, Thân Kiến.

"sati" + "kāye" + "diṭṭhi", theo đúng ngữ nguyên, là quan kiến khi có một nhóm hay một tổ hợp tồn tại. Nơi đây danh từ kāya ám chỉ năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay nói cách khác, là hợp thể phức tạp danh và sắc. Tin rằng có một thực thể không biến đổi, một linh hồn trường cửu trong khi, đó chỉ là một sự cấu thành, một tổ hợp tâm--vật-lý phức tạp, hiểu biếttin tưởng như vậy được gọi là sakkāya-diṭṭhi, thân kiến. Bộ Dhammasaṅgani [7], Pháp Tụ, sách phân loại các pháp, kể ra hai mươi loại lý thuyết về linh hồn khác nhau. Danh từ Sakkāya-diṭṭhi thường được dịch là ảo kiến về tự ngã, lý thuyết về bản ngã, hay ảo ảnh của bản ngã luận.

2. Vicikicchā, Hoài Nghi.

Có sự hoài nghi về:

1. Ðức Phật,
2. Giáo Pháp,
3. Giáo Hội Tăng Già,
4. giới luật (sikkhā),
5. quá khứ,
6. vị lai,
7. cả hai, quá khứvị lai, và
8. pháp Thập Nhị Nhân Duyên Paṭicca-Samuppāda) [8].

3. Sīlabbataparāmāsa, Giới Cấm Thủ.

Tin tưởng nơi những nghi thức và lễ cúng (một cách sai lầm). Bộ Dhammasaṅgani, Pháp Tụ, giải thích điểm nầy như sau:

"Có giáo lý của những vị đạoẩn dật và những vị Bà La Môn ngoài giáo lý nầy (tức ngoài Phật Giáo), dạy rằng ta có thể tự thanh lọc bằng cách giữ giới hay bằng những nghi thức cúng tế, hay bằng cả hai, nghiêm trì giới luật và hành đúng nghi thức cúng tế."

Ðể tận diệt bảy Thằng Thúc (saṁyojana) còn lại vị Tu Ðà Huờn còn phải tái sanh nhiều lắm là bảy lần. Niềm tin nơi Ðức Phật, Giáo Pháp, và Giáo Hội Tăng Già của Ngài thật hoàn toàn vững chắc. Bất luận trong trường hợp nào và không vì lý do gì Ngài còn vi phạm năm giới căn bản. Các Ngài không còn tái sanh vào khổ cảnh bởi vì đang vững tiến trên con đường dẫn đến giác ngộ.

Từ đây vị hành giả, bấy giờ là bậc Thánh Nhân đã thoáng chứng Niết Bàn từ xa, càng quyết tâm gia công, tiến bộ nhanh chóng, kiện toàn tuệ giác, trở thành bậc Tư Ðà Hàm (Sakadāgāmi, Nhứt Lai) tầng thứ nhì trong bốn tầng Thánh, bằng cách làm suy giảm hai Thằng Thúc (saṁyojana) là tham dục (kāmarāga, lòng tham duyên theo Dục Giới), và bất toại nguyện (paṭigha).

Vị Thánh Nhân nầy được gọi là Nhứt Lai vì Ngài chỉ còn tái sanh vào cảnh người một lần nữa thôi, nếu trong kiếp hiện tiền chưa đắc được Ðạo Quả A La Hán. Nên ghi nhận rằng vị Thánh Nhân Nhứt Lai (Tư Ðà Hàm), đắc tầng Thánh thứ nhì, chỉ có thể làm suy giảm sức trói buộc chặt chẽ của hai Thằng Thúc đã cột trói Ngài từ quá khứ vô tận. Mặc dầu là rất ít khi, nhưng đôi lúc các Ngài còn phải bận rộn vấn vương với một vài tư tưởng luyến áisân hận, tuy ở mức độ rất thấp.

Chí đến khi thành tựu tầng Thánh thứ ba, Anāgāmi, Bất Lai (A Na Hàm), Ngài mới trọn vẹn tận diệt hai Thằng Thúc ấy. Kể từ đó Ngài không còn tái sanh vào cảnh người hay cảnh trời Dục Giới nữa, vì đã hoàn toàn tận diệt mọi ham muốn thỏa mãn vật chất của Dục Giới.

Sau khi viên tịch ở đây Ngài tái sanh vào cảnh Vô Phiền Thiên, hay Tịnh Cư, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết (Suddhāvāsa), thích hợp với các vị A Na HàmA La Hán.

Một cư sĩ tại gia, nếu là người độc thân, có thể chứng đắc Ðạo Quả A Na Hàm (Anāgāmi).

Bậc Thánh Bất Lai (A Na Hàm) giờ đây cố gắng thành tựu bước tiến cuối cùng để tận diệt năm Thằng Thúc còn lại là tâm luyến ái những cảnh Sắc Giới (rūparāga), luyến ái những cảnh Vô Sắc Giới (arūparāga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca), và vô minh (avijjā) và đắc Quả A La Hán, tầng Thánh cùng tột.

Những vị Nhập Lưu, Nhứt Lai, và Bất Lai được gọi là Sekhas, ta thường gọi là "bậc Hữu Học", trong ý nghĩa là những vị "còn phải học thêm nữa", bởi vì các Ngài còn cần phải tu luyện thêm nữa mới đến tuyệt đỉnh. Chư vị A La Hán được gọi là Asekhas, thông thường được dịch là "bậc Vô Học", vì các Ngài không còn phải học hay hành thêm.

Một vị A La Hán, Arahant, theo nghĩa đen là bậc Ứng Cúng -- xứng đáng thọ lãnh lễ vật cúng dường -- không còn tái sanh nữa vì Ngài không còn tạo nghiệp mới. Mầm mống tái tạo đã bị tận diệt.

Vị A La Hán nhận thức rằng tất cả những điều phải làm đã được hoàn tất viên mãn, gánh nặng phiền não đã được đặt xuống, và tất cả những hình thức ái dục, những mức độ vô minh, đều hoàn toàn bị tiêu diệt, loại trừ. Vị hành giả hữu phước ấy bấy giờ đã đến mức tột đỉnh cao quý hơn tất cả các cảnh trời, hoàn toàn dứt bỏ mọi tham vọng, mọi ô nhiễm của thế gian, và chứng nghiệm hạnh phúc vô cùng cao thượng mà ngôn ngữ trần gian phàm tục không thể mô tả -- hạnh phúc Niết Bàn.

Ghi chú:

[1] Giai đoạn thứ ba của Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga).

[2] Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi, Ðoạn Nghi Tịnh, là giai đoạn thứ tư của Con Ðường Trong Sạch (Thanh Tịnh Ðạo)

[3] Maggāmaggañāṇadassanavisuddhi, Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ năm của Thanh Tịnh Ðạo (visuddhimagga).

[4] Chín loại tuệ giác ấy -- tức udaya, vaya, bhaṅga, bhaya, ādīnava, nibbidā, muñcitukamyatā, paṭisaṅkhā, upekkhā ñāṇas được gọi chung là Paṭipadāñāṇādassanavisuddhi, Ðạo Tri Kiến Tịnh, quan kiến trong sạch trong sự phân biện phuơng thức thực hành, giai đoạn thứ sáu của Thanh Tịnh Ðạo.

[5] Tuệ giác nằm trong Ðạo siêu thế có tên là Ñāṇadassana Visuddhi, Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ bảy của Thanh Tịnh Ðạo.

[6] Dr. Paul Dahlke.

[7] Xem bản dịch Dhammasaṅgani (từ Pāli ra Anh ngữ) trang 257-259.

[8] Xem bản dịch Dhammasaṅgani (từ Pāli sang Anh ngữ), trang 239.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188611)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43770)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25022)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30798)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21014)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38732)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27352)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31079)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33090)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23950)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16959)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20492)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31889)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18076)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20533)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27004)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18033)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25539)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26617)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36559)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28038)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27267)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30316)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37075)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37225)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23857)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32269)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55112)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36887)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27551)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28288)
Công Phu Khuya
(Xem: 37929)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25383)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24122)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11216)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14482)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10610)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant