Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Phẩm Tựa

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10701)
1. Phẩm Tựa

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ NHẤT
 Đời Diêu-Tần, Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập phụng chiếu dịch.

 KINH DIỆU-PHÁP LIÊN HOA (1)
 PHẨM "TỰA" THỨ NHẤT


 1. Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật (2) ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu (3) đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong (4) dứt sự ràng buộc trong các cõi (5) tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu-Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba-Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan-Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La v.v.. đó là những vị đại A-la-hán hàng tri thức của chúng.

 Lại có bậc hữu-học và vô-học (6) hai ngàn người.

 Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ -kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu-hội.
 2. Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác(7) , đều chứng được pháp Đà-la-ni (8) nhạo-thuyết biện tài (9) chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức.Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia (10) , danh đồn khắp vô lượng thế-giới có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh.

 3. Tên của các vị đó là: Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đắc-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-Tát, Bất-Hưu Tức Bồ-Tát, Bửu-Chưởng Bồ-Tát, Dược-Vương Bồ-Tát, Dõng-thí Bồ-Tát. Bửu-Nguyệt Bồ-Tát, Nguyệt-Quang Bồ-Tát, Mãn-Nguyệt Bồ-Tát, Đại-Lực Bồ-Tát, Vô-Lượng-Lực Bồ-Tát, Việt-Tam-Giới Bồ-Tát, Bạt-Đà Bà-La Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát, Bửu-Tích Bồ-Tát, Đạo-Sư Bồ-Tát v.v... các vị đại Bồ-Tát như thế tám vạn người câu hội. Lúc bấy giờ, Thích-Đề Hoàn-Nhơn (11) cùng quyến thuộc hai vạn vị thiên-tử câu hội. Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên-tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một vạn thiên-tử câu hội.

 Tự-Tại thiên-tử, Đại-Tự-Tại thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn thiên-tử câu hội.

 Chủ cõi Ta-Bà: Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quang-Minh Đại-Phạm v.v...cùng với quyến thuộc một vạn hai ngàn vị thiên-tử câu hội.

 Có tám vị Long-vương: Nan-Đà Long-vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, Sa-Dà-La Long-vương, Hòa-Tu-Cát Long-vương, Đức-Xoa-Ca Long-vương, A Na-Bà-Đạt-Đa Long-vương, Ma-Na-Tư Long-vương, Ưu-Bát-La Long-vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.

 Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp-Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn-Na-La vương, Đại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

 Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương: Nhạc-Càn-Thát-Bà vương, Nhạc-Âm-Càn-Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-Âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

 Có bốn vị A-Tu-La vương: Bà-Trĩ A-Tu-La vương, Dà-La-Khiên-Đà A-Tu-La vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La vương, La-Hầu A-Tu-La vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội.

 Có bốn vị Ca-Lâu-La vương: Đại-Oai-Đức Ca-Lâu-La vương, Đại-Thân Ca-Lâu-La vương, Đại-Mãn Ca-Lâu-La vương, Như-Ý Ca-Lâu-La vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội.

 Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội.

 Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
 4. Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng-dường cung kính ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ-Tát mà nói kinh Đại-thừa tên là: "Vô-Lượng-Nghĩa", là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ-niệm. Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định "Vô-Lượng Nghiã-Xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.

 Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động (12) .

 Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát-bà (13), A-tu-la (14), Ca-lâu-la (15), Khẩn-na-la (16), Ma-hầu-la-dà (17), nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân-thánh-vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
 5. Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh (18), ở các cõi kia.

 Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo.

 Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạotu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
 6. Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-Tát nghĩ rằng: "Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhân duyên gì mà có điềm lành này.

 Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?"

 Ngài lại nghĩ : "Ông Pháp-Vương-tử (19) Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông".

 Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ (20) và các trời, rồng, quỉ, thần v.v.. đều nghĩ rằng : "Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"
 7. Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-Tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v.. mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng: Vì nhân duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?

 8. Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng: Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!


 Đức Đạo-Sư cớ chi

 Lông trắng giữa chặn mày

 Phóng ánh sáng khắp soi?

 Trời mưa hoa Mạn-đà

 Cùng hoa Mạn-thù-Sa,

 Gió thơm mùi chiên đàn

 Vui đẹp lòng đại chúng

 Vì nhân duyên như vậy

 Cõi đất đều nghiêm tịnh

 Mà trong thế giới này

 Sáu điệu vang động lên

 Bấy giờ bốn bộ chúng

 Thảy đều rất vui mừng

 Thân cùng ý thơ thới

 Được việc chưa từng có.
 
 9. Ánh sáng giữa chặn mày


 Soi suốt thẳng phương Đông

 Một muôn tám nghìn cõi

 Đều ánh như sắc vàng.

 Từ địa ngục A-tỳ

 Trên đến trời Hữu-Đảnh

 Trong các thế giới đó

 Cả sáu đạo chúng sanh

 Sống chết của kia đến

 Nghiệp duyên lành cùng dữ

 Thọ báo có tốt xấu

 Tại đây đều thấy rõ.
 
 10. Lại thấy các đức Phật


 Đấng Thánh-Chúa sư-tử

 Diễn nói các kinh điển

 Nhiệm mầu bậc thứ nhất.

 Tiếng của Ngài thanh-tịnh

 Giọng nói ra êm dịu

 Dạy bảo các Bồ-Tát

 Vô-số ức muôn người

 Tiếng Phạm-âm thâm diệu

 Khiến người đều ưa nghe.

 Các Phật ở cõi mình

 Mà giảng nói chánh pháp

 Dùng nhiều món nhân duyên

 Cùng vô lượng tỉ dụ

 Để soi rõ Phật Pháp

 Mà khai ngộ chúng sanh.

 Nếu có người bị khổ

 Nhàm lìa già, bệnh, chết,

 Phật vì nói Niết-bàn

 Để dứt các ngằn khổ

 Nếu là người có phước

 Đã từng cúng dường Phật

 Chí cầu pháp thù thắng

 Vì nói hạnh Duyên-giác

 Nếu lại có Phật tử

 Tu-tập các công hạnh

 Để cầu tuệ vô thượng

 Phật vì nói tịnh đạo.
 
 11. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!


 Tôi ở tại nơi đây

 Thấy nghe dường ấy đó

 Và nghìn ức việc khác

 Thấy rất nhiều như thế

 Nay sẽ lược nói ra:
 
 12. Tôi thấy ở cõi kia


 Có hằng sa Bồ-Tát

 Dùng các món nhân duyên

 Mà cầu chứng Phật đạo.

 Hoặc có vị bố-thí

 Vàng, bạc, ngọc, san-hô,

 Chơn châu, ngọc như-ý,

 Ngọc xa-cừ mã-não,

 Kim-cương các trân-bửu

 Cùng tôi tớ, xe cộ

 Kiệu, cán chưng châu báu

 Vui vẻ đem bố thí

 Hồi hướng về Phật đạo

 Nguyện được chứng thừa ấy

 Bậïc nhất của ba cõi

 Các Phật hằng khen ngợi.

 Hoặc có vị Bồ-Tát

 Xe tứ mã xe báu

 Bao lơn che tàn đẹp

 Trau tria dùng bố thí.

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Bố thí cả vợ con

 Thân thịt cùng tay chân

 Để cầu vô thượng đạo.

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Đầu, mắt và thân thể

 Đều ưa vui thí cho

 Để cầu trí tuệ Phật
 
 13. Ngài Văn-Thù Sư Lợi!


 Ta thấy các Quốc-vương

 Qua đến chỗ của Phật

 Thưa hỏi đạo vô thượng

 Bèn bỏ nước vui vẻ

 Cung điện cả thần thiếp

 Cạo sạch râu lẫn tóc

 Mà mặc y pháp phục.

 Hoặc lại thấy Bồ-Tát

 Mà hiện làm Tỳ-kheo

 Một mình ở vắng vẻ

 Ưa vui tụng kinh điển

 Cũng thấy có Bồ-Tát

 Dõng mãnh và tinh tấn

 Vào ở nơi thâm sơn

 Suy xét mối Phật đạo

 Và thấy bậc ly dục

 Thường ở chỗ không nhàn

 Sâu tu các thiền định

 Được năm món thần thông

 Và thấy vị Bồ-Tát

 Chắp tay trụ thiền định

 Dùng ngàn muôn bài kệ

 Khen ngợi các Pháp-vương

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Trí sâu chí bền chắc

 Hay hỏi các đức Phật

 Nghe rồi đều thọï trì.

 Lại thấy hàng Phật tử

 Định huệ trọn đầy đủ

 Dùng vô lượng tỉ dụ

 Vì chúng mà giảng pháp

 Vui ưa nói các pháp

 Dạy bảo các Bồ-Tát

 Phá dẹp chúng binh ma

 Mà đánh rền trống pháp

 Cùng thấy vị Bồ-Tát

 Vắng bặt yên lặng ngồi

 Trời, rồng đều cung-kính

 Chẳng lấy đó làm mừng,

 Và thấy có Bồ-Tát

 Ở rừng phóng hào quang

 Cứu khổ chốn địa ngục

 Khiến đều vào Phật đạo.

 Lại thấy hàng Phật tử

 Chưa từng có ngủ nghỉ

 Kinh hành ở trong rừng

 Siêng năng cầu Phật đạo

 Cũng thấy đủ giới đức

 Uy nghi không thiếu sót

 Lòng sạch như bảo châu

 Để cầu chứng Phật đạo.

 Và thấy hàng Phật tử

 Trụ vào sức nhẫn nhục

 Bị kẻ tăng-thượng-mạn

 Mắng rủa cùng đánh đập

 Thảy đều hay nhẫn được

 Để cầu chứng Phật đạo

 Lại thấy có Bồ-Tát

 Xa rời sự chơi cười

 Và quyến thuộc ngu si

 Ưa gần gũi người trí

 Chuyên tâm trừ loạn động

 Nhiếp niệm ở núi rừng

 Trải ức nghìn muôn năm

 Để cầu được Phật đạo.
 
 14. Lại thấy vị Bồ-Tát


 Đồ ăn uống ngọt ngon

 Cùng trăm món thuốc thang

 Đem cúng Phật và Tăng,

 Áo tốt đồ thượng phục

 Giá đáng đến nghìn muôn

 Hoặc là vô giá y

 Dùng nghìn muôn ức thứ

 Nhà báu bằng Chiên đàn

 Các giường nằm tốt đẹp

 Để cúng Phật cùng Tăng

 Rừng vườn rất thanh tịnh

 Bông trái đều sum sê

 Suối chảy cùng ao tắm

 Cúng cho Phật và Tăng,

 Cúng thí như thế đó

 Các đồ cúng tốt đẹp

 Vui vẻ không hề nhàm

 Để cầu đạo vô thượng.
 
 15. Lại có vị Bồ-Tát


 Giảng nói pháp tịch diệt

 Dùng các lời dạy dỗ

 Dạy vô số chúng sanh

 Hoặc thấy vị Bồ-Tát

 Quán sát các pháp tịnh

 Đều không có hai tướng

 Cũng như khoảng hư không

 Lại thấy hàng Phật tử

 Tâm không chỗ mê đắm

 Dùng món diệu huệ này

 Mà cầu đạo vô thượng.
 
 16. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!


 Lại có vị Bồ-Tát

 Sau khi Phật diệt độ

 Cúng dường Xá-Lợi-Phật.

 Lại thấy hàng Phật tử

 Xây dựng các tháp miếu

 Nhiều vô số hằng sa

 Nghiêm sức khắp cõi nước.

 Bảo tháp rất cao đẹp

 Đều năm nghìn do tuần.

 Bề ngang rộng xứng nhau

 Đều hai nghìn do tuần.

 Trong mỗi mỗi tháp miếu

 Đều có ngàn tràng phan

 Màn châu xen thả xuống

 Tiếng linh báu hòa reo

 Các vị trời, rồng, thần,

 Người cùng với phi nhơn

 Hương, hoa, cùng kỹ nhạc

 Thường đem đến cúng dường

 Ngài Văn-Thù Sư-Lợi!

 Các hàng Phật tử kia

 Vì cúng dường xá-lợi

 Nên trang sức tháp miếu,

 Cõi quốc giới tự nhiên

 Thù đặc rất tốt đẹp

 Như cây Thiên-thụ-vương

 Hoa kia đang xòe nở
 
 17. Phật phóng một luồng sáng


 Ta cùng cả chúng hội

 Thấy nơi cõi nước này

 Các thứ rất tốt đẹp

 Thần lực của chư Phật

 Trí huệ đều hi hữu

 Phóng một luồng tịnh-quang

 Soi khắp vô lượng cõi

 Chúng ta thấy việc này

 Được điều chưa từng có.
 
 18. Xin Phật tử Văn-Thù


 Giải quyết lòng chúng nghi

 Bốn chúng đều mong ngóng

 Nhìn ngài và nhìn ta

 Đức Thế-Tôn cớ chi

 Phóng ánh quang minh này?

 Phật tử phải thời đáp

 Quyết nghi cho chúng mừng

 Có những lợi ích

 Đức Phật phóng quang này?

 Khi Phật ngồi đạo tràng

 Chứng được pháp thâm diệu

 Vì muốn nói Pháp đó

 Hay là sẽ thọ ký?

 Hiện bày các cõi Phật

 Các báu sạch trang nghiêm

 Cùng thấy các đức Phật

 Đây không phải cớ nhỏ

 Ngài Văn-Thù nên biết

 Bốn chúng và Long, Thần

 Nhìn xem xét ngài đó

 Mong sẽ nói những gì?
 19. Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ: "Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ thì nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.

 20. Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này. Các thiện-nam-tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ (21) kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự Trượng-phu, Thiên-Nhâân-Sư, Phật Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.

 Phật, vì người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế (22) thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-giác, nói pháp Mười-hai-nhân-duyên (23) , vì hàng Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật (24) làm cho chứng được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thành bậc nhứt- thiết chủng-trí. (25)

 Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Đọa.

 Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành.

 Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương- tử: Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp-Ý.

 Tám vị vương- tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ (26) . Nghe vua cha xuất gia chứng đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
 21. Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định "Vô-Lượng Nghĩa-Xứ", thân và tâm chẳng động.
 22. Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương v.v... các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật.
 23. Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây.

 Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này.

 Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử.
 24. Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên "Diệu-Pháp Liên-Hoa" là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.
 25. Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
 26. Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la mà tuyên rằng : "Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết-bàn".

 Khi đó có vị Bồ-Tát, tên Đức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ-ký (27) cho, bảo các Tỳ-kheo rằng : "Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác".

 Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn.
 27. Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát trì kinh "Diệu-Pháp Liên-Hoa" trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
 28. Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị Vương-tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đăng.
 29. Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên: Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phậtcúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.
 30. Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy.

 Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại-thừa tên: "Diệu-Pháp Liên-Hoa"là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm.

 Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 
 31. Ta nhớ thuở quá khứ

 Vô lượng vô số kiếp

 Có Phật Nhân Trung-Tôn

 Hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh

 Đức Thế-Tôn nói pháp

 Độ vô lượng chúng sanh

 Vô số ức Bồ-Tát

 Khiến vào trí huệ Phật.
 
 32. Khi Phật chưa xuất gia

 Có sanh tám vương-tử

 Thấy Đại-Thánh xuất gia

 Cũng theo tu phạm-hạnh
 
 33. Phật nói kinh Đại-thừa

 Tên là "Vô-Lượng-Nghĩa"

 Ở trong hàng đại chúng

 Mà vì rộng tỏ bày.

 Phật nói kinh ấy rồi

 Liền ở trong pháp tòa

 Xếp bằng nhập chánh định

 Tên "Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ"

 Trời rưới hoa Mạn-đà

 Trống trời tự nhiên vang

 Các trời, rồng, quỉ, thần

 Cúng dường đấng Nhân-Tôn,

 Tất cả các cõi Phật

 Tức thời vang động lớn,
 
 34. Phật phóng sáng giữa mày

 Hiện các việc hi hữu

 Aùnh sáng chiếu phương Đông

 Muôn tám nghìn cõi Phật

 Bày sanh tử nghiệp báo

 Của tất cả chúng sanh

 Lại thấy các cõi Phật

 Dùng các báu trang nghiêm

 Màu lưu ly pha lê

 Đây bởi Phật quang soi.
 35. Lại thấy những trời, người

 Rồng, thần, chúng Dạ-xoa

 Càn-thát, Khẩn-na-la

 Đều cúng dường Phật mình
 
 36. Lại thấy các Như-Lai

 Tự nhiên thành Phật đạo,

 Màu thân như núi vàng

 Đoan nghiêm rất đẹp mầu

 Như trong lưu ly sạch

 Hiện ra tượng chơn kim

 Thế-Tôn trong đại chúng

 Dạy nói nghĩa thâm diệu.
 
 37. Mỗi mỗi các cõi Phật

 Chúng Thanh-văn vô số,

 Nhân Phật-quang soi sáng

 Đều thấy đại-chúng kia.

 Hoặc có các Tỳ-kheo

 Ở tại trong núi rừng

 Tinh tấn giữ tịnh giới

 Dường như gìn châu sáng
 
 38. Lại thấy các Bồ-Tát

 Bố thí nhẫn nhục thảy

 Số đông như hằng sa (28)

 Đây bởi sáng Phật soi.

 Lại thấy hàng Bồ-Tát

 Sâu vào các thiền định

 Thân tâm lặng chẳng động

 Để cầu đạo vô thượng.

 Lại thấy các Bồ-Tát

 Rõ tướng pháp tịch diệt

 Đều ở tại nước mình

 Nói pháp cầu Phật đạo.
 
 39. Bấy giờ bốn bộ chúng


 Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Đăng

 Hiện sức thần thông lớn

 Tâm kia đều vui mừng

 Mỗi người tự hỏi nhau

 Việc này nhân-duyên gì?
 
 40. Đấng của trời người thờ

 Vừa từ chánh-định dậy

 Khen Diệu-Quang Bồ-Tát

 Ông là mắt của đời

 Mọi người đều tin về

 Hay vâng giữ tạng pháp

 Như pháp của ta nói

 Chỉ ông chứng biết được

 Đức Phật đã ngợi khen

 Cho Diệu-Quang vui mừng

 Liền nói kinh Pháp-Hoa

 Trải sáu mươi tiểu kiếp

 Chẳng rời chỗ ngồi ấy

 Ngài Diệu-Quang Pháp-sư

 Trọn đều hay thọï trì

 Pháp thượng diệu của Phật.
 41. Phật nói kinh Pháp-Hoa


 Cho chúng vui mừng rồi

 Liền chính trong ngày đó

 Bảo hàng chúng trời, người

 Các pháp "nghĩa thật tướng"

 Đã vì các ông nói

 Nay ta giữa đêm này

 Sẽ vào cõi Niết-bàn

 Phải một lòng tinh tấn

 Rời các sự buông lung

 Các Phật rất khó gặp

 Ức kiếp được một lần
 42. Các con của Phật thảy

 Nghe Phật sắp nhập diệt

 Thảy đều lòng buồn khổ

 Sao Phật gấp Niết-bàn?

 Đấng Thánh-chúa-Pháp-vương

 An ủi vô lượng chúng:

 Nếu lúc ta diệt độ

 Các ông chớ lo sợ

 Đức-Tạng Bồ-Tát đây

 Tâm đã được thông thấu

 Nơi vô lậu thiệt tướng

 Kế đây sẽ thành Phật

 Tên hiệu là Tịnh-Thân

 Cũng độ vô lượng chúng.
 43. Đêm đó Phật diệt độ


 Như củi hết, lửa tắt

 Chia phân các xá-lợi

 Mà xây vô lượng tháp

 Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni

 Số đông như hằng sa

 Lại càng thêm tinh tấn

 Để cầu đạo vô thượng
 44. Diệu-Quang pháp-sư ấy


 Vâng giữ Phật pháp tạng

 Trong tám mươi tiểu kiếp.

 Rộng nói kinh Pháp-Hoa.

 Tám vị vương-tử đó

 Được Diệu-Quang dạy bảo

 Vững bền đạo vô-thượng

 Sẽ thấy vô số Phật

 Cúng dường các Phật xong

 Thuận theo tu đại đạo

 Nối nhau đặng thành Phật

 Chuyển thứ thọ ký nhau,

 Đấng Phật rốt sau cả

 Hiệu là: Phật Nhiên-Đăng

 Đạo-Sư (29) của thiên tiên

 Độ thoát vô lượng chúng.
 
 45. Diệu-Quang Pháp-sư đó


 Có một người đệ tử

 Tâm thường cưu biếng trễ

 Tham ưa nơi danh lợi

 Cầu danh lợi không nhàm

 Thường đến nhà sang giàu

 Rời bỏ việc tụng học

 Bỏ quên không thông thuộc

 Vì bởi nhân duyên ấy

 Nên gọi là Cầu-Danh

 Cũng tu các nghiệp lành

 Được thấy vô số Phật

 Thuận tu theo đại đạo

 Đủ sáu ba-la-mật

 Nay gặp đấng Thích-Ca

 Sau đây sẽ thành Phật

 Hiệu rằng : "Phật Di-Lặc

 Rộng độ hàng chúng sanh

 Số đông đến vô lượng.
 
 46. Sau Phật kia diệt độ

 Lười biếng đó là ngài

 Còn Diệu-Quang Pháp-sư

 Nay thời chính là ta.

 Ta thấy Phật Đăng-Minh

 Điềm sáng trước như thế

 Cho nên biết rằng nay

 Phật muốn nói "Pháp-Hoa"

 Tướng nay như điềm xưa.

 Là phương tiện của Phật

 Nay Phật phóng ánh sáng

 Giúp bày nghĩa thiệt tướng

 Các người nay nên biết

 Chắp tay một lòng chờ

 Phật sẽ rưới nước pháp

 Đầy đủ người cầu đạo

 Các người cầu ba thừa (30)

 Nếu có chỗ nghi hối

 Phật sẽ dứt trừ cho

 Khiến hết không còn thừa.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32578)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12031)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12571)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34443)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21643)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12521)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12648)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16112)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16394)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13732)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16404)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11186)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16103)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12613)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11936)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11403)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12511)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20531)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10853)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14229)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20150)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13852)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant