Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Phẩm Tín giải

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9388)
4. Phẩm Tín giải

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

 Quyển Thứ Hai 
PHẨM 'TÍN GIẢI' THỨ TƯ

 1. Lúc bấy giờ, các Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Đề, Đại Ca-Chiên-Diên, Đại Ca-Diếp, Đại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế-Tôn dự ghi cho Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, sanh lòng hy hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng : "Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác."


 Đức Thế-Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi toà thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp : Không, vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hý thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-Tát, lòng chúng con không ưa thích.

 Vì sao? Đức Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn, lại nay đây chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác của Phật dạy Bồ-Tát không hề sanh một niệm ưa thích.Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh-văn sẽ được vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, lòng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hy hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự được.
 2. Thế-Tôn! chúng con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó.


 Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, dong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn quốc.

 Người cha từ trước đến nay, tìm con không được bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly, san-hô, hổ-phách, pha lê, châu ngọc v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ bò dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.

 Bấy giờ, gã nghèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.

 Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thì của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo.
 3. Thưa Thế-Tôn! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Cư-sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi ngọc chân châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy đức rất tôn trọng.


 Gã cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng : "Ông này chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật.

 Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm". Gã nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.
 4. Khi đó, ông Trưởng-giả ngồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: 'Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già có vẫn tham tiếc'. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.


 Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan : "Tôi không hề xúc phạm, cớ sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất.

 Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng : "Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó".

 Vì sao? Cha biết con mình chí ý hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ giả nói với cùng tư û: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý".

 Gã cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.
 5. Bấy giờ ông Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tụy không có oai đức: 'Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gã cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì? Thì nên nói với nó rằng: 'Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm.' Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên.
 6. Bấy giờ gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xótquái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: 'Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!' Dùng phương tiện đó được đến gần người con.


 Lúc sau lại bảo con rằng : "Gã nam tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo".

 Vì sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không lòng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "con".

 Khi đó gã cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.
 7. Thế-Tôn! Bấy giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng : "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân, báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta.


 Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất" .Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân, báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.
 8. Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan đại-thần, dòng sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng : "Các ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết."


 Thế-Tôn! Khi đó gả cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng : "Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến".
 9. Thế-Tôn ! Ông phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như-Lai thường nói chúng con là con.


 Thưa Thế-Tôn! Chúng con vì ba món khổ (16) nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Ngày nay đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hý luận (17). Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Đã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật; do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều.

 Nhưng đức Thế-Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như-Lai.

 Đức Thế-Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như-Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày, cho là nhiều rồi, đối với pháp Đại-thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ-Tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.

 Vì sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.

 Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại-thừa, thời Phật vì chúng con mà nói pháp Đại-thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-Tát chê trách Thanh-văn ham pháp tiểu thừa.

 Nhưng đức Phật thực dùng Đại-thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp-vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đã được có.

 Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 10. Chúng con ngày hôm nay


 Nghe âm giáo của Phật

 Lòng hớn hở mừng rỡ

 Được pháp chưa từng có.

 Phật nói hàng Thanh-văn

 Sẽ được thành quả Phật

 Đống châu báu vô thượng

 Chẳng cầu tự nhiên được.

 Ví nhưđồng tử

 Thơ bé không hiểu biết

 Bỏ cha trốn chạy đi

 Đến cõi nước xa khác

 Nổi trôi khắp nước ngoài

 Hơn năm mươi năm dài

 Cha gã lòng buồn nhớ

 Kiếm tìm khắp bốn phương

 Kiếm tìm đó đã mỏi

 Liền ở lại một thành

 Xây dựng nên nhà cửa

 Năm món dục tự vui.

 Nhà ông giàu có lớn

 Nhiều những kho vàng, bạc

 Xa-cừ, ngọc mã-não

 Trân châu, ngọc lưu ly

 Voi ngựa cùng trâu dê

 Kiệu, cán đủ xe cộ

 Ruộng đất và tôi tớ

 Nhân dân rất đông nhiều

 Xuất nhập thâu lời lãi

 Bèn khắp đến nước khác

 Khách thương người buôn bán

 Không xứ nào không có,

 Nghìn muôn ức chúng hội

 Vây quanh cung kính ông,

 Thường được bậc vua chúa

 Mến yêu nhớ tưởng đến,

 Các quan, hạng hào tộc

 Đều cũng đồng tôn trọng

 Vì có các sự duyên

 Người tới lui rất đông,

 Giàu mạnh như thế đó

 Có thế lực rất lớn

 Mà tuổi đã già nua

 Lại càng buồn nhớ con

 Ngày đêm luống suy nghĩ

 Giờ chết toan sắp đến

 Con thơ dại bỏ ta

 Hơn năm mươi năm tròn,

 Các của vật kho tàng

 Sẽ phải làm thế nào?
 11. Bấy giờ gã cùng tử


 Đi tìm cầu ăn mặc

 Ấp này đến ấp khác

 Nước này sang nước nọ,

 Hoặc có khi được của

 Hoặc có khi không được,

 Đói thiếu hình gầy gò

 Thân thể sanh ghẻ lác.

 Lần lựa đi trải qua

 Đến thành cha gã ở

 Xoay vần làm thuê mướn

 Bèn đến trước nhà cha.

 Lúc ấy ông Trưởng-giả

 Đang ở trong nhà ông

 Giăng màn châu báu lớn

 Ngồi tòa sư-tử cao

 Hàng quyến thuộc vây quanh

 Đông người đứng hầu hạ,

 Hoặc có người tính toán

 Vàng, bạc, cùng vật báu

 Của cải ra hoặc vào

 Biên chép ghi giấy tờ.

 Gã cùng tử thấy cha

 Quá mạnh giàu tôn nghiêm

 Cho là vị quốc-vương

 Hoặc là đồng bậc vua,

 Kinh sợ tự trách thầm

 Tại sao lại đến đây?

 Lại thầm tự nghĩ rằng:

 Nếu ta đứng đây lâu

 Hoặc sẽ bị bức ngặt

 Ép buộc sai khiến làm.

 Suy nghĩ thế đó rồi

 Rảo chạy mà đi thẳng

 Hỏi thăm xóm nghèo nàn

 Muốn qua làm thuê mướn.
 12. Lúc bấy giờ Trưởng-giả


 Ngồi trên tòa sư-tử

 Xa trông thấy con mình

 Thầm lặng mà ghi nhớ,

 Ông liền bảo kẻ sứ

 Đuổi theo bắt đem về.

 Gã cùng tử sợ kêu

 Mê ngất ngã trên đất

 Người này theo bắt tôi

 Chắc sẽ bị giết chết

 Cần gì đồ ăn mặc

 Khiến tôi đến thế này!

 Trưởng-giả biết con mình

 Ngu dại lòng hẹp hèn

 Chẳng chịu tin lời ta

 Chẳng tin ta là cha

 Ông liền dùng phương tiện

 Lại sai hai người khác

 Mắt chột, thân lùn xấu

 Hạng không có oai đức!

 Các người nên bảo nó

 Rằng ta sẽ thuê nó

 Hốt dọn các phân nhơ

 Trả giá bội cho nó.

 Gã cùng tử nghe rồi

 Vui mừng theo sứ về

 Vì dọn các phân nhơ

 Sạch sẽ các phòng nhà

 Trưởng-giả trong cửa sổ

 Thường ngó thấy con mình

 Nghĩ con mình ngu dại

 Ưa thích làm việc hèn.

 Lúc đó ông Trưởng-giả

 Mặc y phục cũ rách

 Tay cầm đồ hốt phân

 Qua đến chỗ con làm

 Phương tiện lần gần gũi

 Bảo rằng: rán siêng làm!

 Đã thêm giá cho ngươi

 Và cho dầu thoa chân

 Đồ ăn uống đầy đủ

 Thêm đệm chiếu đầy ấm

 Cặn kẽ nói thế này:

 Ngươi nên siêng làm việc!

 Rồi lại dịu dàng bảo

 Như con thật của ta.
 13. Ông Trưởng-giả có trí


 Lần lần cho ra vào

 Trải qua hai mươi năm

 Coi sóc việc trong nhà,

 Chỉ cho biết vàng, bạc,

 Ngọc trân châu, pha-lê

 Các vật ra hoặc vào

 Đều khiến gã biết rõ.

 Gã vẫn ở ngoài cửa

 Nương náu nơi am tranh

 Tự nghĩ phận nghèo nàn

 Ta không có vật đó.

 Cha biết lòng con mình

 Lần lần đã rộng lớn

 Muốn giao tài vật cho

 Liền nhóm cả thân tộc

 Quốc vương các đại thần

 Hàng sát-lợi, cư-sĩ

 Rồi ở trong chúng này

 Tuyên nói chính con ta

 Bỏ ta đi nước khác

 Trải hơn năm mươi năm,

 Từ gặp con đến nay

 Đã hai mươi năm rồi

 Ngày trước ở thành kia

 Mà mất đứa con này

 Ta đi tìm khắp nơi

 Bèn đến ngụ nơi đây

 Phàm của cải ta có

 Nhà cửa cùng nhân dân

 Thảy đều phó cho nó

 Mặc tình nó tiêu dùng.

 Người con nhớ xưa nghèo

 Chí ý rất kém hèn

 Nay ở nơi cha mình

 Được quá nhiều châu báu

 Và cùng với nhà cửa

 Gồm tất cả tài vật,

 Lòng rất đỗi vui mừng

 Được điều chưa từng có.
 14. Đức Phật cũng như thế


 Biết con ưa tiểu thừa

 Nên chưa từng nói rằng

 Các ngươi sẽ thành Phật

 Mà chỉ nói chúng con

 Được có đức vô lậu

 Trọn nên quả tiểu thừa

 Hàng Thanh-văn đệ tử

 Đức Phật bảo chúng con

 Nói đạo pháp tối thượng

 Người tu tập pháp này

 Sẽ được thành Phật quả

 Chúng con vâng lời Phật

 Vì các Bồ-Tát lớn

 Dùng các món nhân duyên

 Cùng các món thí dụ

 Bao nhiêu lời lẽ hay

 Để nói đạo vô thượng.

 Các hàng Phật tử thảy

 Từ nơi con nghe pháp

 Ngày đêm thường suy gẫm

 Tinh tấn siêng tu tập.

 Bấy giờ các đức Phật

 Liền thọ ký cho kia:

 Các ông ở đời sau

 Sẽ được thành Phật đạo.

 Pháp mầu rất bí tàng

 Của tất cả các Phật

 Chỉ để vì Bồ-Tát

 Mà dạy việc thật đó,

 Nhưng chẳng vì chúng con

 Nói pháp chân yếu này

 Như gã cùng tử kia

 Được gần bên người cha

 Dầu lãnh biết các vật

 Nhưng lòng chẳng mong cầu,

 Chúng con dầu diễn nói

 Tạng pháp báu của Phật

 Tự mình không chí nguyện

 Cũng lại như thế đó.
 15. Chúng con diệt bề trong (18)


 Tự cho là đã đủ

 Chỉ xong được việc này

 Lại không biết việc khác.

 Chúng con dầu có nghe

 Pháp tịnh cõi nước Phật

 Cùng giáo hóa chúng sanh

 Đều không lòng ưa vui.

 Như thế là vì sao?

 Vì tất cả các pháp

 Thảy đều là không lặng

 Không sanh cũng không diệt

 Không lớn cũng không nhỏ

 Vô lậuvô vi,

 Suy nghĩ thế đó rồi

 Chẳng sanh lòng ưa muốn.

 Chúng con đã từ lâu

 Đối với trí huệ Phật

 Không tham không ưa thích

 Không lại có chí nguyện,

 Mà đối với pháp mình

 Cho đó là rốt ráo.

 Chúng con từ lâu nay

 Chuyên tu tập pháp không

 Được thoát khỏi hoạn nạn

 Khổ não của ba cõi

 Trụ trong thân rốt sau

 Hữu dư y Niết-bàn (19)

 Đức Phật dạy bảo ra

 Chứng được đạo chẳng luống

 Thời là đã có thể

 Báo được ơn của Phật.

 Chúng con dầu lại vì

 Các hàng Phật tử thảy

 Tuyên nói pháp Bồ-Tát

 Để cầu chứng Phật đạo

 Mà mình đối pháp đó

 Trọn không lòng ham muốn

 Đấng Đạo-Sư buông bỏ

 Vì xem biết lòng con

 Ban đầu không khuyên gắng

 Nói những lợi có thực

 Như ông Trưởng-giả giàu

 Biết con chí kém hèn

 Bèn dùng sức phương tiện

 Để hoà phục tâm con

 Vậy sau mới giao phó

 Tất cả tài vật báu

 Đức Phật cũng thế đó

 Hiện ra việc ít có

 Biết con ưa tiểu thừa

 Bèn dùng sức phương tiện

 Điều phục tâm của con

 Rồi mới dạy trí lớn.

 Chúng con ngày hôm nay

 Được pháp chưa từng có

 Chẳng phải chỗ trước mong

 Mà nay tự nhiên được

 Như gã cùng tử kia

 Được vô lượng của báu
 16. Thế-Tôn! Chúng con nay

Được đạo và chứng quả

Ở nơi pháp vô lậu

Được tuệ nhãn thanh tịnh

Chúng con từ lâu nay

Gìn tịnh giới Phật chế

Mới ở ngày hôm nay

Được hưởng quả báo đó,

Trong pháp của Pháp-vương

Lâu tu-hành phạm hạnh

Ngày nay được vô lậu

Quả báo lớn vô thượng

Chúng con ngày hôm nay

Mới thật là Thanh-văn

Đem tiếng đạo của Phật

Cho tất cả đều nghe

Chúng con ngày hôm nay

Thật là A-la-hán

Ở nơi các thế gian

Trời, người và ma, phạm,

Khắp ở trong chúng đó

Đáng lãnh của cúng dường

Ơn lớn của Thế-Tôn

Đem việc ít có này

Thương xót dạy bảo cho

Làm lợi ích chúng con

Trải vô lượng ức kiếp

Ai có thể đền được.

Tay lẫn chân cung cấp

Đầu đảnh lễ cung kính

Tất cả đều cúng dường

Đều không thể đền được.

Hoặc dùng đầu đội Phật

Hai vai cùng cõng vác

Trong kiếp số hằng sa

Tận tâmcung kính,

Lại đem dưng đồ ngon

Y phục báu vô lượng

Và các thứ đồ nằm

Cùng các món thuốc thang

Gỗ ngưu-đầu chiên-đàn

Và các vật trân báu

Để dựng xây tháp miếu

Y báu lót trên đất

Như các việc trên đây

Đem dùng cúng dường Phật

Trải kiếp số hằng sa

Cũng không đền đáp được.

Các Phật thật ít có

Đấng vô lượng vô biên

Đến bất-khả tư-nghì

Đủ sức thần thông lớn,

Bậc vô lậu vô vi

Là vua của các Pháp

Hay vì kẻ hạ liệt

Nhẫn việc cao thượng đó,

Hiện lấy tướng phàm phu

Tùy cơ nghi dạy nói

Các Phật ở nơi pháp

Được sức rất tự tại

Biết các hàng chúng sanh

Có những điều ưa muốn

Và chí lực của nó

Theo sức nó kham nhiệm

Dùng vô lượng thí dụ

Mà vì chúng nói pháp

Tùy theo các chúng sanh

Trồng căn lành đời trước

Lại biết đã thành thục

Hay là chưa thành thục

Suy lường những điều đó

Phân biệt biết rõ rồi

Ở nơi đạo nhất thừa

Tùy cơ nghi nói ba.
 
KINH DIỆU- PHÁP LIÊN-HOA
QUYỂN THỨ HAI

Bậc thượng căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thật hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng tư, toàn giao phó cho con nhà.

NAM-MÔ PHÁP-HOA HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT. (3 lần)

Đức Như-Lai dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, các con đua giành ồn ào, Trưởng-giả mừng khoe, thọ ký quả Phật không sai.

NAM-MÔ VỊ-LAI HOA-QUANG PHẬT. (3 lần)
 
 

THÍCH NGHĨA

(1 ) LẬU TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với: 'Vô Lậu'.

(2 ) Thân Phật sắc vàng tử-kim đủ 32 tướng tốt.

(3 ) Trí của Phật có 10 lực dụng:
1.Thị-xứ phi-xứ trí-lực

2. Nghiệp trí-lực

3.Thiền-định trí-lực

4.Căn-tính trí-lực

5.Nguyện-dục trí-lực

6. Giới trí-lực

7.Đạo-chí-xử trí-lực

8.Túc-mạng trí-lực

9.Thiên-nhãn trí-lực

10.Lậu-tận trí-lực
(4 ) BẤT CỘNG: Bồ-Tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng Phật là có 18 pháp này.

(5) BỔ-TÁT: 'Bồ-Đề': Giác; 'tát đỏa': Hữu-tình; nói tắt là Bồ-Tát, tức là bậc đã tự hay giác ngộ và có thể cứu độ giác ngộ loài hữu tình.

(6 ) Tức là Bà-la-môn.

(7 ) Tên của Ma-vương ở đầu cõi dục.

(8 ) NGŨ UẨN: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Cũng gọi là ngũ ấm.

(9 ) NGŨ DỤC: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (ngủ nghỉ). 2. Sắc, thanh, hương, vị, xúc.

(10) Bốn đức vô-sở-úy của Phật:
1. Nhất-thiết-trí vô-úy

2. Lậu-tận vô-úy

3. Thuyết-đạo vô-úy

4. Thuyết-khổ-tận-đạo vô-úy
(11) NĂM CĂN: Tín căn, tinh-tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.

NĂM LỰC: tín lực, tinh tấn lực, niệmlực, định lực, tuệ lực.

BẨY GIÁC CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỷ, khinh an, định,xả.
TÁM CHÁNH ĐẠO: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định.
(12) Súy: Cú tai mèo; Hiêu, Điêu, THỨU: Loài chim dữ, tiếng xấu. THƯỚC: Chim khách.

CƯU: Tu-hú. CÁP: Bồ câu. NGOAN-XÀ: Rắn độc. PHÚC-YẾT: Bò-cạp.

NGÔ ÂCÔNG: Rít. DO-DIÊN: Trùng, rận ở trong áo tơi. DỨU -LY: Chồn, cáo.

HỀ-THỬ: Giống chuột. KHƯƠNG-LƯƠNG: Bọ hung.

(13) Thiên-nhãn-minh, Túc-mạng-minh, Lậu-tận-minh.

(14) Thiên-nhãn-thông, thần-túc-thông, thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông, túc-mạng-thông, lậu-tận-thông.

(15) TIN: lòng tin. GIẢI: Hiểu rõ.

(16) Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.

(17) Hý-LUẬN: Lời luận nói suông không sự thật, đồng nghĩa với hư vọng.

(18) Diệt lòng phiền-não: 1. Kiến sở đoạn 2. Tư sở đoạn.

(19) NIẾT-BÀN: Tịch tịnh; VIÊN TỊCH: nghĩa là vắng bặt. Còn vọng động phiền não là còn tạo nghiệp thọ báo sanh-tử. Dứt hẳn vọng động phiền não khỏi báo sanh tử yên lặng nhàn vui nên gọi Niết-bàn.
HỮU-DƯ Y: Thân người hiện còn thừa lại rốt sau cả.

SỰ TÍCH TẢ KINH THOÁT KHỒ

Nhà Đường, niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, xứ Trường-An, mẹ vợ ông Lưu-Công-Tín chết.

Không bao lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần-hồn đi đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thọ nhiều sự khổ.

Khóc bảo con gái rằng : "Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp-Hoa ngõ hầu thoát khỏi tội này". Nói vừa xong cửa đá liền khép lại.

Cô họ Trần sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ ông Triệu-Sư-Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ kinh Pháp-Hoa hiện đã thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa sang, mà bộ kinh đó vốn là của một người họ Phạm ra tiền mướn tả, mà ông Tín thâ chưa biết cũng tin là ông Triệu tả cho mình.

Không bao lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng : "Mẹ chính vì bộ kinh đó mà càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vốn là nhà của họ Phạm tu phước, sao lại cướp làm công của mình?" Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi thăm lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính là bộ trên đó.

Vợ chồng liền thuê người tả một bộ khác để cúng dường hồi hướng công đức cho mẹ.

Than ôi ! Công đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào? Tội nặng bị khổ ở địa ngục nhờ người tả một bộ kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa là mình tự ra công tiền ư!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10342)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28775)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12983)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17427)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35467)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10664)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19210)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12387)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25998)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13296)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14346)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13712)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16817)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17539)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13106)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12509)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11591)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11579)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14481)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20413)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18939)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19521)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13830)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14983)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13965)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15503)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20166)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13810)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11682)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12974)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22837)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14536)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11631)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16850)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18317)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11484)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15824)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12858)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18882)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18390)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant