Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Phẩm Dược thảo dụ

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9874)
5. Phẩm Dược thảo dụ

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

  QUYỂN THỨ BA
PHẨM "DƯỢC-THẢO-DỤ" THỨ NĂM


 1. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-Diếp các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay thay! Ca-Diếp. Khéo nói được công đức chơn thật của đức Như-Lai. Đúng như lời các ông vừa nói; đức Như-Lai lại còn có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được".
 Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng sức trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói thảy đều đến bậïc nhứt-thiết-trí (1) . Đức Như-Lai xem biết chỗ quy thú (2) của tất cả pháp; cũng rõ biết chỗ tâm sở hành (3) của tất cả chúng sanh không thấu không ngại. Phật lại ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.

 2. Ca-Diếp! Thí như trong cõi tam-thiên đại-thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dầy bủa giăng trùm khắp cõi tam-thiên đại-thiên (4) đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm, cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc: hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc chỉ vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa; hoặc có thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn.
 Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.

 3. Ca-Diếp nên biết! Đức Như-Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như là vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, A-tu-la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam-thiên đại-thiên. Phật ở trong đại chúng mà xướng lời nầy:
 "Ta là đấng Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật Thế-Tôn. Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết-bàn thời làm cho chứng Niết-bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhứt-thiết-trí, bậc nhứt-thiết-kiến, là bậc tri đạo, bậïc khai đạo, bậïc thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, A-tu-la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy."
 Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ đức Như-Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng, Phật đều khiến vui mừng được nhiều lợi lành. Các chúng sanh nầy nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.
 Đức Như-Lai nói pháp một tướng một vị, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc "nhứt-thiết-chủng-trí". Có chúng sanh nào nghe pháp của Như-Lai hoặc thọ trì đọc tụng, đúng như lời mà tu hành, được công đức tự mình không hay biết.

 Vì sao? Vì chỉ có Như-Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Nghĩ thế nào? Tu thế nào?

 Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì đặng pháp gì?

 Chúng sanh ở nơi các bậïc, chỉ có đức Như-Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.

 Đức Như-Lai biết pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là: Tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết-bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói " nhứt-thiết-chủng-trí."

 Ca-Diếp! Các ông rất là hy hữu, có thể biết rõ đức Như-Lai tùy cơ nghi nói pháp, hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các đức Phật Thế-Tôn tùy cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.

 Khi đó đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 
 4. Pháp Vương phá các cõi

 Hiện ra trong thế gian

 Theo tánh của chúng sanh

 Dùng các cách nói pháp

 Đức Như-Lai tôn trọng

 Trí huệ rất sâu xa

 Lâu giữ pháp yếu này

 Chẳng vội liền nói ra

 Người trí nếu được nghe

 Thời có thể tin hiểu,

 Kẻ không trí nghi hối

 Thời bèn là mất hẳn.

 Ca-Diếp! Vì cớ đó

 Theo sức chúng nói pháp

 Dùng các món nhân duyên

 Cho chúng được chánh kiến

 Ca-Diếp! ông nên biết

 Thí như vừng mây lớn

 Nổi lên trong thế gian

 Che trùm khắp tất cả

 Mây trí huệ chứa nhuần

 Chớp nhoáng sáng chói lòa

 Tiếng sấm xa vang động

 Khiến mọi loài vui đẹp

 Nhậït quang bị che khuất

 Trên mặt đất mát mẻ

 Mây mù sa bủa gần

 Dường có thể nắm tới.

 Trận mưa đó khắp cùng

 Bốn phương đều xối xuống

 Dòng nước tuôn vô lượng

 Cõi đất đều rút đầy

 Nơi núi sông hang hiểm

 Chỗ rậm rợp sanh ra

 Những cây cối cỏ thuốc

 Các thứ cây lớn nhỏ

 Trăm giống lúa mộng mạ

 Các thứ mía cùng nho

 Nhờ nước mưa đượm nhuần

 Thảy đều tươi tốt cả.

 Đất khô khắp được rưới

 Thuốc cây đều sum sê

 Vừng mây kia mưa xuống

 Nước mưa thuần một vị

 Mà cỏ cây lùm rừng

 Tất cả các giống cây

 Hạng thượng trung cùng hạ

 Xứng theo tánh lớn nhỏ

 Đều được sanh trưởng cả.

 Gốc thân nhánh và lá

 Trổ bông trái sắc vàng

 Một trận mưa rưới đến

 Cây cỏ đều thấm mướt

 Theo thể tướng của nó

 Tánh loại chia lớn nhỏ

 Nước đượm nhuần vẫn một

 Mà đều được sum sê.

 5. Đức Phật cũng như thế

 Hiện ra nơi trong đời

 Ví như vầng mây lớn

 Che trùm khắp tất cả

 Đã hiện ra trong đời

 Bèn vì các chúng sanh

 Phân biệt diễn nói bày

 Nghĩa thật của các pháp

 Đấng Đại-Thánh Thế-Tôn

 Ở trong hàng trời người

 Nơi tất cả chúng hội

 Mà tuyên nói lời nầy:

 Ta là bậc Như-Lai

 Là đấng Lưỡng-Túc-Tôn (5)

 Hiện ra nơi trong đời

 Dường như vầng mây lớn

 Thấm nhuần khắp tất cả

 Những chúng sanh khô khao

 Đều làm cho lìa khổ

 Được an ổn vui sướng

 Hưởng sự vui thế gian

 Cùng sự vui Niết-bàn.

 Các chúng trời người nầy

 Một lòng khéo lóng nghe

 Đều nên đến cả đây

 Ra mắt đấng vô thượng.

 Ta là đấng Thế-Tôn

 Không có ai bằng được

 Muốn an ổn chúng sanh

 Nên hiện ra trong đời

 Vì các đại chúng nói

 Pháp cam lồ trong sạch

 Pháp đó thuần một vị

 Giải thoát Niết-bàn thôi.

 Dùng một giọng tiếng mầu

 Diễn xướng nghĩa nhiệm nầy

 Đều thường vì Đại-thừa

 Mà kết làm nhân duyên.

 Ta xem tất cả chúng

 Khắp đều bình đẳng cả

 Không có lòng bỉ thử

 Cũng không có hạn ngại

 Hằng vì tất cả chúng

 Mà bình đẳng nói pháp

 Như khi vì một người

 Lúc chúng đông cũng vậy.

 Thường diễn nói pháp luôn

 Từng không việc gì khác

 Ngồi, đứng, hoặc đến, đi

 Trọn không hề nhàm mỏi

 Đầy đủ cho thế gian

 Như mưa khắp thấm nhuần

 Sang hèn cùng thượng hạ

 Giữ giới hay phá giới

 Oai nghi được đầy đủ

 Và chẳng được đầy đủ

 Người chánh-kiến tà-kiến

 Kẻ độn căn lợi căn

 Khắp rưới cho mưa pháp

 Mà không chút nhàm mỏi.

 Tất cả hàng chúng sanh

 Được nghe pháp của ta

 Tùy sức mình lãnh lấy

 Trụ ở các nơi các bậïc

 Hoặc là ở trời, người

 Làm Chuyển-luân thánh-vương

 Trời Thích, Phạm, các vua

 Đó là cỏ thuốc nhỏ

 Hoặc rõ pháp vô lậu

 Hay chứng được Niết-bàn

 Khởi sáu pháp thần thông

 Và được ba món minh

 Ở riêng trong núi rừng

 Thường hành môn thiền định

 Chứng được bậc Duyên-giác

 Là cỏ thuốc bậc trung.

 Hoặc cầu bực Thế-Tôn

 Ta sẽ được thành Phật

 Tu hành tinh tấn, định

 Là cỏ thuốc bậc thượng

 Lại có hàng Phật tử

 Chuyên tâm nơi Phật đạo

 Thường thật hành từ bi

 Tự biết mình làm Phật

 Quyết định không còn nghi

 Gọi đó là cây nhỏ.

 Hoặc an trụ thần thông

 Chuyển bất thối pháp luân

 Độ vô lượng muôn ức

 Trăm nghìn loài chúng sanh

 Bồ-Tát hạng như thế

 Gọi đó là cây lớn.

 Phật chỉ bình đẳng nói

 Như nước mưa một vị

 Theo căn tánh chúng sanh

 Mà hưởng thọ không đồng

 Như những cỏ cây kia

 Được đượm nhuần đều khác

 6. Phật dùng món dụ nầy
 Để phương tiện chỉ bày

 Các thứ lời lẽ hay

 Đều diễn nói một pháp

 Ở nơi trí huệ Phật

 Như một giọt trong biển.

 Ta rưới trận mưa pháp

 Đầy đủ khắp thế gian

 Pháp mầu thuần một vị

 Tùy sức riêng tu hành,

 Như thể lùm rừng kia

 Và cỏ thuốc những cây

 Tùy giống lớn hay nhỏ

 Lần lần thêm sum suê

 Pháp của các đức Phật

 Thường dùng thuần một vị

 Khiến cho các thế gian

 Đều khắp được đầy đủ

 Lần lựa siêng tu hành

 Rồi đều được đạo quả.

 Hàng Thanh-văn, Duyên-giác,

 Ở nơi chốn núi rừng,

 Trụ thân hình rốt sau

 Nghe Phật Pháp được quả

 Nếu các vị Bồ-Tát

 Trí huệ rất vững bền

 Rõ suốt cả ba cõi

 Cầu được thừa tối thượng

 Đó gọi là cây nhỏ

 Mà được thêm lớn tốt.

 Lại có vị trụ thiền

 Được sức thần thông lớn

 Nghe nói các pháp không

 Lòng rất sanh vui mừng

 Phóng vô số hào quang

 Độ các loài chúng sanh

 Đó gọi là cây lớn

 Mà được thêm lớn tốt

 Như thế, Ca-Diếp này!

 Đức Phật nói pháp ra

 Thí như vầng mây lớn

 Dùng nước mưa một vị

 Đượm nhuần nơi hoa người

 Đều được kết trái cả.

 Ca-Diếp ông phải biết

 Ta dùng các nhân duyên

 Các món thí dụ thảy

 Để chỉ bày đạo Phật

 Đó là ta phương tiện

 Các đức Phật cũng thế

 Nay ta vì các ông

 Nói việc rất chân thật

 Các chúng thuộc Thanh-văn

 Đều chẳng phải diệt độ

 Chỗ các ông tu hành

 Là đạo của Bồ-Tát

 Lần lần tu học xong

 Thảy đều sẽ thành Phật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14109)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10849)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10513)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11191)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12001)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13133)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13633)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33656)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11335)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12923)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13056)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11625)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17891)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11431)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11849)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11492)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18973)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12540)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11323)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13138)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15754)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11690)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12765)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13965)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12983)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12936)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13295)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12760)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12687)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11734)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11723)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12324)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12383)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19815)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11990)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16880)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15059)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16115)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12872)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12219)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11915)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11924)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16505)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13231)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12483)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11816)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19858)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11151)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11254)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10401)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11090)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10959)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10035)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11745)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant