Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

19. Phẩm Pháp-sư công-đức

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9184)
19. Phẩm Pháp-sư công-đức

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ SÁU 
PHẨM "PHÁP-SƯ CÔNG-ĐỨC"
THỨ MƯỜI CHÍN


 1. Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường-Tinh-Tấn đại Bồ-Tát rằng: Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.

 2. Thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu-Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết. Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu người ở trong chúng

 Dùng tâm không sợ sệt

 Nói kinh Pháp-Hoa này

 Ông nghe công đức đó

 Người đó được tám trăm

 Công đức thù thắng nhãn

 Do dùng đây trang nghiêm

 Mắt kia rất thanh tịnh.

 Mắt thịt cha mẹ sanh

 Thấy cả cõi tam thiên

 Trong ngoài núi Di-lâu

 Núi Tu-di, Thiết-vi

 Và các núi rừng khác

 Biển lớn nước sông ngòi

 Dưới đến ngục A-tỳ

 Trên đến trời Hữu-Đảnh

 Chúng sanh ở trong đó

 Tất cả đều thấy rõ

 Dầu chưa được thiên nhãn

 Sức nhục nhãn như thế.
 3. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, được một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa-ngục vô gián, trên đến trời Hữu-Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng. Tiếng voi, tiếng ngựa,tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng-tử, tiếng đồng-nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ xoa, tiếng Càn thát bà, tiếng A tu la, tiếng Ca lâu la, tiếng Khẩn na la, tiếng Ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa-ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh-văn, tiếng Bích-chi-Phật, tiếng Bồ-Tát, tiếng Phật.

 Nói tóm đó, trong cõi tam-thiên đại-thiên, tất cả trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa được thiên nhĩ dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.

 Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 4. Tai cha mẹ sanh ra

 Trong sạch không đục nhơ

 Dù tai này thường nghe

 Cả tiếng cõi tam thiên

 Tiếng voi, ngựa, trâu, xe

 Tiếng chung linh loa cổ

 Tiếng cầm, sắc, không hầu

 Tiếng ống tiêu, ống dịch

 Tiếng ca hay thanh tịnh

 Nghe đó mà chẳng ham.

 Tiếng vô số giống người

 Nghe đều hiểu rõ được

 Lại nghe tiếng các trời

 Tiếng ca rất nhiệm mầu

 Và nghe tiếng trai, gái,

 Tiếng đồng-tử, đồng-nữ

 Trong núi sông hang hiểm

 Tiếng Ca-lăng-tần-dà

 Cộng-mạng các chim thảy

 Đều nghe tiếng của nó.

 Địa ngục các đau đớn

 Các thứ tiếng độc khổ

 Ngạ quỷ đói khát bức

 Tiếng tìm cầu uống ăn

 Các hàng A-tu-la

 Ở nơi bên biển lớn

 Lúc cùng nhau nói năng

 Vang ra tiếng tăm lớn

 Như thế người nói pháp

 An trụ ở trong đây

 Xa nghe các tiếng đó

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Trong cõi nước mười phương

 Cầm thú kêu hô nhau

 Người nói kinh Pháp-Hoa

 Ở đây đều nghe đó

 Trên các trời Phạm-Thế

 Quang-Âm cùng Biến-Tịnh

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Tiếng tăm của kia nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Tất cả chúng Tỳ-kheo

 Và các Tỳ-kheo-ni

 Hoặc đọc tụng kinh điển,

 Hoặc vì người khác nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Lại có các Bồ-Tát

 Đọc tụng nơi kinh pháp

 Hoặc vì người khác nói

 Soạn tập giải nghĩa kinh

 Các tiếng tăm như thế

 Thảy đều được nghe đó.

 Các Phật đấng Đại-Thánh

 Giáo hóa hàng chúng sanh

 Ở trong các đại hội

 Diễn nói pháp nhiệm mầu

 Người trì Pháp-Hoa nầy

 Thảy đều được nghe đó.

 Cõi tam-thiên đại-thiên

 Các tiếng tăm trong ngoài

 Dưới đến ngục A-tỳ (3)

 Trên đến trời Hữu-Đảnh (4)

 Đều nghe tiếng tăm kia

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Vì tai kia sáng lẹ

 Đều hay phân biệt biết

 Người trì kinh Pháp-Hoa

 Dầu chưa được thiên nhĩ

 Chỉ dùng tai sanh ra

 Công đức đã như thế.
 5. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiệân-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ công đức, dùng tỹ căn thanh tịnh đó, ngửi khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: Mùi hoa tu-mạn-na, mùi hoa xa-đề, mùi hoa mạt-lợi, mùi hoa chiêm-bặc, mùi hoa ba-la-la, mùi hoa sen đỏ, mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắng, mùi cây có hoa, mùi cây có trái, mùi chiên-đàn, mùi trầm-thủy, mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-da-la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.

 Và lại rõ biết mùi chúng sanh : Mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng-nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều được ngữi rõ biết chẳng nhầm.

 Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng ngửi mùi trên các cõi trời: Mùi cây ba- lợi-chất-đa-la, cây câu-bệ-đa-la, cùng mùi hoa mạn-đà-la, hoa đại-mạn-đa-la, hoa mạn-thù-sa, hoa đại-mạn-thù-sa, mùi gỗ chiên-đàn, trầm-thuỷ các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hợp thoảng ra mùi thơm đều ngửi biết.

 Lại ngửi mùi nơi thân của các vị trời : Mùi của Thích-Đề-Hoàn-Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên Diệu-Pháp-Đường vì các vị trời Đao-Lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa ngửi biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm-Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu-Đảnh cũng đều ngửi biết.

 Và ngửi mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh-văn, mùi Bích-chi-Phật, mùi Bồ-Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa ngửi biết chỗ ở của đó. Dầu ngửi biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt vì người khác nói, nghi nhớ không nhầm.

 Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 6. Người đó mũi thanh tịnh

 Ở trong thế giới này

 Hoặc vật thơm hoặc hôi

 Các thứ đều ngửi biết.

 Tu-mạn-na, xa-đề

 Đa-ma-la, chiên-đàn

 Trầm-thủy và mùi quế

 Mùi các thứ hoa trái

 Và mùi các chúng sanh :

 Mùi nam-tử, nữ-nhơn

 Người nói pháp ở xa

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Đại-Thế Chuyển-luân-vương

 Tiểu-chuyển-luân và con

 Bầy tôi, các cung nhân

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Trân bảo đeo nơi thân

 Cùng tạng báu trong đất

 Bảo-nữ của Luân-vương

 Ngửi hương biết chỗ nào.

 Mọi người đồ nghiêm thân

 Y phụcchuỗi ngọc

 Các thứ hương xoa thân

 Ngửi mùi biết thân kia.

 Các trời hoặc đi, ngồi

 Dạo chơi và thần biến

 Người trì Pháp-Hoa này

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cây hoa trái hột

 Và mùi thơm dầu tô

 Người trì kinh ở đây

 Đều biết ở chỗ nào.

 Các núi, chỗ sâu hiểm

 Cây chiên-đàn nở hoa

 Chúng sanh ở trong đó

 Ngửi mùi đều biết được.

 Núi Thiết-vi, biển lớn

 Các chúng sanh trong đất

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết đó ở đâu

 Trai gái A-tu-la

 Và quyến thuộc của chúng

 Lúc đánh cãi, dạo chơi

 Ngửi hương đều biết được.

 Đồng trống, chỗ hiểm trở

 Sư tử, voi, hùm, sói

 Bò rừng, trâu nước thảy

 Ngửi hương biết chỗ ở.

 Nếu có người nghén chửa

 Chưa rõ trai hay gái

 Không căn và phi nhơn

 Ngửi mùi đều biết được.

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết người mới nghén chửa

 Thành tựu hay chẳng thành

 An vui đẻ con phước

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết tâm niệm trai, gái

 Lòng nhiễm dục ngu, hờn

 Cũng biết người tu hành

 Các phục tàng trong đất

 Vàng, bạc, các trân bảo

 Đồ đồng chỗ đựng chứa

 Nghe nói đều biết được

 Các thứ chuỗi ngọc báu

 Không ai biết giá mấy

 Ngửi mùi biết mắc rẻ

 Chỗ sản xuất ở đâu.

 Các thứ hoa trên trời

 Mạn-đà, mạn-thù-sa

 Cây Ba-lợi-chất-đa

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cung điện trên trời

 Thượng, trung, hạ sai khác

 Các hoa báu trang nghiêm

 Ngửi hương đều biết được.

 Thắng điện vườn rừng trời

 Các nhà Diệu-Pháp-Đường

 Ở trong đó vui chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các trời hoặc nghe pháp

 Hoặc lúc hưởng ngũ dục

 Lại, qua, đi, ngồi, nằm

 Ngửi mùi đều biết được.

 Thiên nữ mặc y phục

 Hoa hương tốt trang nghiêm

 Lúc quanh khắp dạo chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Lần lượt lên như thế

 Nhẫn đến trời Phạm-Thế

 Nhập thiền cùng xuất thiền

 Ngửi mùi đều biết được.

 Trời Quang-Aââm, Biến-Tịnh (5)

 Nhẫn đến nơi Hữu-Đảnh

 Mới sanh và lui chết

 Ngửi hương đều biết được.

 Các hàng Ty-kheo chúng

 Nơi pháp thường tinh tấn

 Hoặc ngồi hoặc kinh hành

 Và đọc tụng kinh điển

 Hoặc ở dưới rừng cây

 Chuyên ròng mà ngồi thiền

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết ở tại đâu.

 Bồ-Tát chí bền chắc

 Ngồi thiền hoặc đọc tụng

 Hoặc vì người nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Nơi nơi chỗ Thế-Tôn

 Được mọi người cung kính

 Thương chúng mà nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Chúng sanh ở trước Phật

 Nghe kinh đều mừng vui

 Đúng pháp mà tu hành

 Ngửi mùi đều biết được.

 Dầu chưa được vô lậu

 Pháp-sanh-tỹ Bồ-Tát

 Mà người trì kinh đây

 Trước được tướng mũi nàî
 7. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử, cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, được một nghìn hai trăm thiệt công đức.

 Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam-lồ trên trời không món nào là chẳng ngon.
 Nếu được thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích.
 Lại các vị thiên-tử, thiên-nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng Long, Long- nữ, Da-xoa, Da-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-ba nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-da nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường.
 Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-ba-di, Quốc-vương, Vương-tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển-luân-vương, đại Chuyển-luân-vương, bảy báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.
 Vì vị Bồ-Tát này khéo nói pháp, nên hàng Ba-la-môn, cư-sĩ, nhân dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh-văn, Bích-chi-Phật, Bồ-Tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật Pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu.

 Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 8. Người đó lưỡi thanh tịnh

 Trọn không thọ vị xấu

 Người đó ăn uống chi

 Đều biến thành cam-lồ.

 Dùng tiếng hay thâm tịnh

 Ở trong chúng nói pháp

 Đem các nhân duyên dụ

 Dẫn dắt lòng chúng sanh

 Người nghe đều vui mừng

 Bày đồ cúng dường tốt.

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 Cùng A-tu-la thảy

 Đều dùng lòng cung kính

 Mà đồng đến nghe pháp

 Người nói kinh pháp đó

 Nếu muốn dùng tiếng mầu

 Khắp cùng cõi Tam-thiên

 Tuỳ ý liền được đến.

 Đại, Tiểu Chuyển-luân-vương

 Và nghìn con quyến thuộc

 Chấp tay lòng cung kính

 Thường đến nghe thọ pháp,

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 La-sát, Tỳ-xá-xà

 Cũng dùng lòng vui mừng

 Thường ưa đến cúng dường,

 Phạm-thiên-vương, Ma-vương,

 Tự-tại, Đại-tự-tại

 Các chúng trời như thế

 Thường đến chỗ người đó.

 Các Phật cùng đệ tử

 Nghe người nói tiếng pháp

 Thương nhớ giữ gìn cho

 Hoặc lúc vì hiện thân.
 9. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép được tám trăm thân công đức, được thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v.. đều hiện rõ trong đó.

 Và núi Thiết-vi, núi Đại-thiết-vi, núi Di-lâu, núi Đại-di-lâu..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu-Đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh- văn, Duyên-giác, Bồ-Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng.
 10. Nếu người trì Pháp-Hoa

 Thân thể rất thanh tịnh

 Như lưu ly sạch kia

 Chúng sanh đều ưa thấy.

 Lại như gương sáng sạch

 Đều thấy các sắc tượng

 Bồ-Tát nơi tịnh thân

 Thấy cả vật trong đời

 Chỉ riêng mình thấy rõ

 Người khác không thấy được,

 Trong cõi nước tam-thiên

 Tất cả các chúng sanh

 Trời, người, A-tu-la

 Địa-ngục, quỷ, súc-sanh

 Các sắc tượng như thế

 Đều hiện rõ trong thân.

 Cung điện của các trời

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Núi Thiết-vi, Di-lâu

 Núi Ma-ha Di-lâu

 Các biển nước lớn thảy

 Đều hiện ở trong thân.

 Các Phật cùng Thanh-văn

 Phật tử Bồ-Tát thảy

 Hoặc riêng, hoặc tại chúng

 Nói pháp thảy đều hiện.

 Dầu chưa được diệu thân

 Pháp tánh sạch các lậu

 Dùng thân thanh tịnh thường

 Tất cả hiện trong đó.
 11. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, nếu có người thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời được một nghìn hai trăm ý công đức.

 Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thật tướng chẳng trái nhau.

 Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hý luận, thảy đều biết đó.

 Dầu chưa được trí huệ vô lậuý căn thanh tịnh như thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chân thật, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
 12. Ý người đó thanh tịnh

Sáng lanh không đục nhơ

Dùng ý căn tốt đó

Biết pháp : Thượng, trung, hạ

Nhẫn đến nghe một kệ

Thông đạt vô lượng nghĩa

Thứ đệ nói đúng pháp

Tháng, bốn tháng, đến năm.

Trong ngoài của cõi này

Tất cả các chúng sanh

Hoặc trời rồng và người

Dạ-xoa, quỉ, thần thảy

Kia ở trong sáu đường

Nghĩ tưởng bao nhiêu đều

Phước báo trì Pháp-Hoa

Đồng thời thảy đều biết.

Vô số Phật mười phương

Trăm phước tướng trang nghiêm

chúng sanh nói pháp

Đều nghe hay thọ trì.

Suy gẫm vô lượng nghĩa

Nói pháp cũng vô lượng

Sau trước chẳng quên lộn

Bởi thọ trì Pháp-Hoa

Trọn biết các pháp tướng

Theo nghĩa rõ thứ đệ.

Suốt danh tự ngữ ngôn

Như chỗ biết diễn nói.

Người đó có nói ra

Là pháp của Phật trước

Vì diễn nói pháp này

Ở trong chúng không sợ.

Người trì kinh Pháp-Hoa

Ý căn tịnh như thế

Dầu chưa được vô lậu

Trước có tướng dường ấy.

Người đó trì kinh này

An trụ bậc hy hữu

Được tất cả chúng sanh

Vui mừng mà mến kính.

Hay dùng nghìn muôn ức

Lời lẽ rất hay khéo

Phân biệt mà nói pháp

Bởi trì kinh Pháp-Hoa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32585)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11092)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30225)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30309)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12034)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12155)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11493)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12581)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34444)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52113)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10622)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10382)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10586)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10339)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21644)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9517)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7004)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10296)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12525)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12650)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16114)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16395)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13733)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13695)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14228)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9119)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11187)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16126)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16104)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12615)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11941)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15548)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11404)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11908)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12512)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14856)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13023)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14382)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20533)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13102)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10854)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20562)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14230)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20152)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17463)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13853)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11906)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant