Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

19. Phẩm Pháp-sư công-đức

15 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9255)
19. Phẩm Pháp-sư công-đức

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch
Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch

QUYỂN THỨ SÁU 
PHẨM "PHÁP-SƯ CÔNG-ĐỨC"
THỨ MƯỜI CHÍN


 1. Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường-Tinh-Tấn đại Bồ-Tát rằng: Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh Pháp-Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.

 2. Thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu-Đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết. Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Nếu người ở trong chúng

 Dùng tâm không sợ sệt

 Nói kinh Pháp-Hoa này

 Ông nghe công đức đó

 Người đó được tám trăm

 Công đức thù thắng nhãn

 Do dùng đây trang nghiêm

 Mắt kia rất thanh tịnh.

 Mắt thịt cha mẹ sanh

 Thấy cả cõi tam thiên

 Trong ngoài núi Di-lâu

 Núi Tu-di, Thiết-vi

 Và các núi rừng khác

 Biển lớn nước sông ngòi

 Dưới đến ngục A-tỳ

 Trên đến trời Hữu-Đảnh

 Chúng sanh ở trong đó

 Tất cả đều thấy rõ

 Dầu chưa được thiên nhãn

 Sức nhục nhãn như thế.
 3. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, được một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa-ngục vô gián, trên đến trời Hữu-Đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng. Tiếng voi, tiếng ngựa,tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng-tử, tiếng đồng-nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhân, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ xoa, tiếng Càn thát bà, tiếng A tu la, tiếng Ca lâu la, tiếng Khẩn na la, tiếng Ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa-ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Tỳ-kheo-ni, tiếng Thanh-văn, tiếng Bích-chi-Phật, tiếng Bồ-Tát, tiếng Phật.

 Nói tóm đó, trong cõi tam-thiên đại-thiên, tất cả trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa được thiên nhĩ dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.

 Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 4. Tai cha mẹ sanh ra

 Trong sạch không đục nhơ

 Dù tai này thường nghe

 Cả tiếng cõi tam thiên

 Tiếng voi, ngựa, trâu, xe

 Tiếng chung linh loa cổ

 Tiếng cầm, sắc, không hầu

 Tiếng ống tiêu, ống dịch

 Tiếng ca hay thanh tịnh

 Nghe đó mà chẳng ham.

 Tiếng vô số giống người

 Nghe đều hiểu rõ được

 Lại nghe tiếng các trời

 Tiếng ca rất nhiệm mầu

 Và nghe tiếng trai, gái,

 Tiếng đồng-tử, đồng-nữ

 Trong núi sông hang hiểm

 Tiếng Ca-lăng-tần-dà

 Cộng-mạng các chim thảy

 Đều nghe tiếng của nó.

 Địa ngục các đau đớn

 Các thứ tiếng độc khổ

 Ngạ quỷ đói khát bức

 Tiếng tìm cầu uống ăn

 Các hàng A-tu-la

 Ở nơi bên biển lớn

 Lúc cùng nhau nói năng

 Vang ra tiếng tăm lớn

 Như thế người nói pháp

 An trụ ở trong đây

 Xa nghe các tiếng đó

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Trong cõi nước mười phương

 Cầm thú kêu hô nhau

 Người nói kinh Pháp-Hoa

 Ở đây đều nghe đó

 Trên các trời Phạm-Thế

 Quang-Âm cùng Biến-Tịnh

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Tiếng tăm của kia nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Tất cả chúng Tỳ-kheo

 Và các Tỳ-kheo-ni

 Hoặc đọc tụng kinh điển,

 Hoặc vì người khác nói

 Pháp-sư ở nơi đây

 Thảy đều được nghe đó.

 Lại có các Bồ-Tát

 Đọc tụng nơi kinh pháp

 Hoặc vì người khác nói

 Soạn tập giải nghĩa kinh

 Các tiếng tăm như thế

 Thảy đều được nghe đó.

 Các Phật đấng Đại-Thánh

 Giáo hóa hàng chúng sanh

 Ở trong các đại hội

 Diễn nói pháp nhiệm mầu

 Người trì Pháp-Hoa nầy

 Thảy đều được nghe đó.

 Cõi tam-thiên đại-thiên

 Các tiếng tăm trong ngoài

 Dưới đến ngục A-tỳ (3)

 Trên đến trời Hữu-Đảnh (4)

 Đều nghe tiếng tăm kia

 Mà chẳng hư nhĩ căn

 Vì tai kia sáng lẹ

 Đều hay phân biệt biết

 Người trì kinh Pháp-Hoa

 Dầu chưa được thiên nhĩ

 Chỉ dùng tai sanh ra

 Công đức đã như thế.
 5. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiệân-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ công đức, dùng tỹ căn thanh tịnh đó, ngửi khắp cõi tam-thiên đại-thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: Mùi hoa tu-mạn-na, mùi hoa xa-đề, mùi hoa mạt-lợi, mùi hoa chiêm-bặc, mùi hoa ba-la-la, mùi hoa sen đỏ, mùi hoa sen xanh, mùi hoa sen trắng, mùi cây có hoa, mùi cây có trái, mùi chiên-đàn, mùi trầm-thủy, mùi đa-ma-la-bạt, mùi đa-da-la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.

 Và lại rõ biết mùi chúng sanh : Mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng-nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều được ngữi rõ biết chẳng nhầm.

 Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng ngửi mùi trên các cõi trời: Mùi cây ba- lợi-chất-đa-la, cây câu-bệ-đa-la, cùng mùi hoa mạn-đà-la, hoa đại-mạn-đa-la, hoa mạn-thù-sa, hoa đại-mạn-thù-sa, mùi gỗ chiên-đàn, trầm-thuỷ các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hợp thoảng ra mùi thơm đều ngửi biết.

 Lại ngửi mùi nơi thân của các vị trời : Mùi của Thích-Đề-Hoàn-Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên Diệu-Pháp-Đường vì các vị trời Đao-Lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của các vị trời nam nữ khác, thảy đều xa ngửi biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm-Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu-Đảnh cũng đều ngửi biết.

 Và ngửi mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh-văn, mùi Bích-chi-Phật, mùi Bồ-Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa ngửi biết chỗ ở của đó. Dầu ngửi biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt vì người khác nói, nghi nhớ không nhầm.

 Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 6. Người đó mũi thanh tịnh

 Ở trong thế giới này

 Hoặc vật thơm hoặc hôi

 Các thứ đều ngửi biết.

 Tu-mạn-na, xa-đề

 Đa-ma-la, chiên-đàn

 Trầm-thủy và mùi quế

 Mùi các thứ hoa trái

 Và mùi các chúng sanh :

 Mùi nam-tử, nữ-nhơn

 Người nói pháp ở xa

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Đại-Thế Chuyển-luân-vương

 Tiểu-chuyển-luân và con

 Bầy tôi, các cung nhân

 Ngửi mùi biết chỗ nào.

 Trân bảo đeo nơi thân

 Cùng tạng báu trong đất

 Bảo-nữ của Luân-vương

 Ngửi hương biết chỗ nào.

 Mọi người đồ nghiêm thân

 Y phụcchuỗi ngọc

 Các thứ hương xoa thân

 Ngửi mùi biết thân kia.

 Các trời hoặc đi, ngồi

 Dạo chơi và thần biến

 Người trì Pháp-Hoa này

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cây hoa trái hột

 Và mùi thơm dầu tô

 Người trì kinh ở đây

 Đều biết ở chỗ nào.

 Các núi, chỗ sâu hiểm

 Cây chiên-đàn nở hoa

 Chúng sanh ở trong đó

 Ngửi mùi đều biết được.

 Núi Thiết-vi, biển lớn

 Các chúng sanh trong đất

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết đó ở đâu

 Trai gái A-tu-la

 Và quyến thuộc của chúng

 Lúc đánh cãi, dạo chơi

 Ngửi hương đều biết được.

 Đồng trống, chỗ hiểm trở

 Sư tử, voi, hùm, sói

 Bò rừng, trâu nước thảy

 Ngửi hương biết chỗ ở.

 Nếu có người nghén chửa

 Chưa rõ trai hay gái

 Không căn và phi nhơn

 Ngửi mùi đều biết được.

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết người mới nghén chửa

 Thành tựu hay chẳng thành

 An vui đẻ con phước

 Do vì sức ngửi mùi

 Biết tâm niệm trai, gái

 Lòng nhiễm dục ngu, hờn

 Cũng biết người tu hành

 Các phục tàng trong đất

 Vàng, bạc, các trân bảo

 Đồ đồng chỗ đựng chứa

 Nghe nói đều biết được

 Các thứ chuỗi ngọc báu

 Không ai biết giá mấy

 Ngửi mùi biết mắc rẻ

 Chỗ sản xuất ở đâu.

 Các thứ hoa trên trời

 Mạn-đà, mạn-thù-sa

 Cây Ba-lợi-chất-đa

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các cung điện trên trời

 Thượng, trung, hạ sai khác

 Các hoa báu trang nghiêm

 Ngửi hương đều biết được.

 Thắng điện vườn rừng trời

 Các nhà Diệu-Pháp-Đường

 Ở trong đó vui chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Các trời hoặc nghe pháp

 Hoặc lúc hưởng ngũ dục

 Lại, qua, đi, ngồi, nằm

 Ngửi mùi đều biết được.

 Thiên nữ mặc y phục

 Hoa hương tốt trang nghiêm

 Lúc quanh khắp dạo chơi

 Ngửi mùi đều biết được.

 Lần lượt lên như thế

 Nhẫn đến trời Phạm-Thế

 Nhập thiền cùng xuất thiền

 Ngửi mùi đều biết được.

 Trời Quang-Aââm, Biến-Tịnh (5)

 Nhẫn đến nơi Hữu-Đảnh

 Mới sanh và lui chết

 Ngửi hương đều biết được.

 Các hàng Ty-kheo chúng

 Nơi pháp thường tinh tấn

 Hoặc ngồi hoặc kinh hành

 Và đọc tụng kinh điển

 Hoặc ở dưới rừng cây

 Chuyên ròng mà ngồi thiền

 Người trì kinh ngửi mùi

 Đều biết ở tại đâu.

 Bồ-Tát chí bền chắc

 Ngồi thiền hoặc đọc tụng

 Hoặc vì người nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Nơi nơi chỗ Thế-Tôn

 Được mọi người cung kính

 Thương chúng mà nói pháp

 Ngửi mùi đều biết được.

 Chúng sanh ở trước Phật

 Nghe kinh đều mừng vui

 Đúng pháp mà tu hành

 Ngửi mùi đều biết được.

 Dầu chưa được vô lậu

 Pháp-sanh-tỹ Bồ-Tát

 Mà người trì kinh đây

 Trước được tướng mũi nàî
 7. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử, cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, được một nghìn hai trăm thiệt công đức.

 Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam-lồ trên trời không món nào là chẳng ngon.
 Nếu được thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích.
 Lại các vị thiên-tử, thiên-nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng Long, Long- nữ, Da-xoa, Da-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-ba nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lầu-la, Ca-lầu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-da nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường.
 Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-tắc, Ưu-ba-di, Quốc-vương, Vương-tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển-luân-vương, đại Chuyển-luân-vương, bảy báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.
 Vì vị Bồ-Tát này khéo nói pháp, nên hàng Ba-la-môn, cư-sĩ, nhân dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh-văn, Bích-chi-Phật, Bồ-Tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật Pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu.

 Khi đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
 8. Người đó lưỡi thanh tịnh

 Trọn không thọ vị xấu

 Người đó ăn uống chi

 Đều biến thành cam-lồ.

 Dùng tiếng hay thâm tịnh

 Ở trong chúng nói pháp

 Đem các nhân duyên dụ

 Dẫn dắt lòng chúng sanh

 Người nghe đều vui mừng

 Bày đồ cúng dường tốt.

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 Cùng A-tu-la thảy

 Đều dùng lòng cung kính

 Mà đồng đến nghe pháp

 Người nói kinh pháp đó

 Nếu muốn dùng tiếng mầu

 Khắp cùng cõi Tam-thiên

 Tuỳ ý liền được đến.

 Đại, Tiểu Chuyển-luân-vương

 Và nghìn con quyến thuộc

 Chấp tay lòng cung kính

 Thường đến nghe thọ pháp,

 Các trời, rồng, Dạ-xoa

 La-sát, Tỳ-xá-xà

 Cũng dùng lòng vui mừng

 Thường ưa đến cúng dường,

 Phạm-thiên-vương, Ma-vương,

 Tự-tại, Đại-tự-tại

 Các chúng trời như thế

 Thường đến chỗ người đó.

 Các Phật cùng đệ tử

 Nghe người nói tiếng pháp

 Thương nhớ giữ gìn cho

 Hoặc lúc vì hiện thân.
 9. Lại nữa, Thường-Tinh-Tấn! Nếu có thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép được tám trăm thân công đức, được thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ v.v.. đều hiện rõ trong đó.

 Và núi Thiết-vi, núi Đại-thiết-vi, núi Di-lâu, núi Đại-di-lâu..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu-Đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh- văn, Duyên-giác, Bồ-Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng.
 10. Nếu người trì Pháp-Hoa

 Thân thể rất thanh tịnh

 Như lưu ly sạch kia

 Chúng sanh đều ưa thấy.

 Lại như gương sáng sạch

 Đều thấy các sắc tượng

 Bồ-Tát nơi tịnh thân

 Thấy cả vật trong đời

 Chỉ riêng mình thấy rõ

 Người khác không thấy được,

 Trong cõi nước tam-thiên

 Tất cả các chúng sanh

 Trời, người, A-tu-la

 Địa-ngục, quỷ, súc-sanh

 Các sắc tượng như thế

 Đều hiện rõ trong thân.

 Cung điện của các trời

 Nhẫn đến trời Hữu-Đảnh

 Núi Thiết-vi, Di-lâu

 Núi Ma-ha Di-lâu

 Các biển nước lớn thảy

 Đều hiện ở trong thân.

 Các Phật cùng Thanh-văn

 Phật tử Bồ-Tát thảy

 Hoặc riêng, hoặc tại chúng

 Nói pháp thảy đều hiện.

 Dầu chưa được diệu thân

 Pháp tánh sạch các lậu

 Dùng thân thanh tịnh thường

 Tất cả hiện trong đó.
 11. Lại nữa Thường-Tinh-Tấn! Sau khi Đức Như-Lai diệt độ, nếu có người thiện-nam-tử cùng thiện-nữ-nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời được một nghìn hai trăm ý công đức.

 Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thật tướng chẳng trái nhau.

 Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp. Sáu đường chúng sanh trong cõi tam-thiên đại-thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hý luận, thảy đều biết đó.

 Dầu chưa được trí huệ vô lậuý căn thanh tịnh như thế, người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chân thật, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.

 Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghiã trên mà nói kệ rằng:
 12. Ý người đó thanh tịnh

Sáng lanh không đục nhơ

Dùng ý căn tốt đó

Biết pháp : Thượng, trung, hạ

Nhẫn đến nghe một kệ

Thông đạt vô lượng nghĩa

Thứ đệ nói đúng pháp

Tháng, bốn tháng, đến năm.

Trong ngoài của cõi này

Tất cả các chúng sanh

Hoặc trời rồng và người

Dạ-xoa, quỉ, thần thảy

Kia ở trong sáu đường

Nghĩ tưởng bao nhiêu đều

Phước báo trì Pháp-Hoa

Đồng thời thảy đều biết.

Vô số Phật mười phương

Trăm phước tướng trang nghiêm

chúng sanh nói pháp

Đều nghe hay thọ trì.

Suy gẫm vô lượng nghĩa

Nói pháp cũng vô lượng

Sau trước chẳng quên lộn

Bởi thọ trì Pháp-Hoa

Trọn biết các pháp tướng

Theo nghĩa rõ thứ đệ.

Suốt danh tự ngữ ngôn

Như chỗ biết diễn nói.

Người đó có nói ra

Là pháp của Phật trước

Vì diễn nói pháp này

Ở trong chúng không sợ.

Người trì kinh Pháp-Hoa

Ý căn tịnh như thế

Dầu chưa được vô lậu

Trước có tướng dường ấy.

Người đó trì kinh này

An trụ bậc hy hữu

Được tất cả chúng sanh

Vui mừng mà mến kính.

Hay dùng nghìn muôn ức

Lời lẽ rất hay khéo

Phân biệt mà nói pháp

Bởi trì kinh Pháp-Hoa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10340)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12320)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28774)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12982)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17425)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35458)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10664)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19209)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12385)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25992)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13296)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14345)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16062)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13711)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16815)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17535)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13105)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12508)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11590)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11579)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14480)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20411)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18937)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19519)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13829)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14979)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15022)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13963)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15501)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13808)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11680)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12973)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22836)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14535)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11630)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16849)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18317)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11483)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15822)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12856)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18880)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18387)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant