Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Tăng Chi Bộ

18 Tháng Năm 201100:00(Xem: 31075)
Kinh Tăng Chi Bộ

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TĂNG CHI BỘ 
Anguttara Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
 

tangchi-bia.jpg (5623 bytes)

Mục Lục Tổng Quát

Chương Một Pháp
Phẩm 01-14

01. Phẩm Sắc

02. Phẩm Ðoạn Triền Cái

03. Phẩm Khó Sử Dụng

04. Phẩm Không Ðiều Phục

05. Phẩm Ðặt Hướng Và Trong Sáng

06. Phẩm Búng Ngón Tay

07. Phẩm Tinh Tấn

08. Phẩm Làm Bạn Với Thiện

09. Phẩm Phóng Dật

10. Phẩm Phi Pháp

11. Phẩm Thứ Mười Một

12. Phẩm Vô Phạm

13. Phẩm Một Người

14. Phẩm Người Tối Thắng

Phẩm 15-21

15. Phẩm Không Thể Có Ðược

16. Phẩm Một Pháp

17. Phẩm Chủng Tử

18. Phẩm Makkhali

19. Phẩm Không Phóng Dật

20. Phẩm Thiền Ðịnh (1)

21. Phẩm Thiền Ðịnh (2)

Chương Hai Pháp

Phẩm 01-04

01. Phẩm Hình Phạt

02. Phẩm Tranh Luận

04. Phẩm Tâm Thăng Bằng

03. Phẩm Người Ngu

Phẩm 05-17

05. Phẩm Hội Chúng

06. Phẩm Người

07. Phẩm Lạc

08. Phẩm Tướng

09. Phẩm Các Pháp

10. Phẩm Kẻ Ngu

11. Phẩm Các Hy Vọng

12. Phẩm Hy Cầu

13. Phẩm Bố Thí

14. Phẩm Ðón Chào

15. Phẩm Nhập Ðịnh

16. Phẩm Phẫn Nộ

17. Phẩm Thứ Mười Bảy

Chương Ba Pháp

Phẩm 01-04

01. Phẩm Người Ngu

02. Phẩm Người Ðóng Xe

03. Phẩm Người

04. Phẩm Sứ Giả Của Trời

Phẩm 05-07

05. Phẩm Nhỏ

06. Phẩm Các Bà-la-môn

07. Phẩm Lớn

Phẩm 08-10

08. Phẩm Ananda

09. Phẩm Sa-môn

10. Phẩm Hạt Muối

Phẩm 11-16

11. Phẩm Chánh Giác

12. Phẩm Ðọa Xứ

13. Phẩm Kusinàra

14. Phẩm Kẻ Chiến Sĩ

15. Phẩm Cát Tường

16. Phẩm Lõa Thể

Chương Bốn Pháp

Phẩm 01-03

01. P02. Phẩm Hành

03. Phẩm Uruvelà

Phẩm 04-06

04. Phẩm Bánh Xe

05. Phẩm Rohitassa

06. Phẩm Nguồn Sanh Phước

Phẩm 07-12

07. Phẩm Nghiệp Công Ðức

08. Phẩm Không Hý Luận 

09. Phẩm Không Có Rung Ðộng

10. Phẩm Asura

11. Phẩm Mây Mưa

12. Phẩm Kesi

Phẩm 13-18

13. Phẩm Sợ Hãi

14. Phẩm Loài Người

15. Phẩm Ánh Sáng

16. Phẩm Các Căn

17. Phẩm Ðạo Hành

18. Phẩm Tư Tâm Sở

Phẩm 19-21

19. Phẩm Chiến Sĩ

20. Ðại Phẩm

21. Phẩm Bậc Chân Nhân

Phẩm 22-28

22. Phẩm Ô Uế

23. Phẩm Diệu Hạnh

24. Phẩm Nghiệp

25. Phẩm Sợ Hãi Phạm Tội

26. Phẩm Thắng Trí

27. Phẩm Nghiệp Ðạo

28. Phẩm Tham

Chương Năm Pháp

Phẩm 01-06

01. Phẩm Sức Mạnh Hữu Học

02. Phẩm Sức Mạnh

03. Phẩm Năm Phần

04. Phẩm Sumana

05. Phẩm Vua Munda

06. Phẩm Triền Cái

Phẩm 07-12

07. Phẩm Tưởng

08. Phẩm Chiến Sĩ

09. Phẩm Trưởng Lão

10. Phẩm Kakudha

11. Phẩm An Ổn Trú

12. Phẩm Andhakavinda

Phẩm 13-18

13. Phẩm Bệnh

14. Phẩm Vua

15. Phẩm Tikandaki

16. Phẩm Diệu Pháp

17. Phẩm Hiềm Hận

18. Phẩm Nam Cư Sĩ

Phẩm 19-26

19. Phẩm Rừng

20. Phẩm Bà-la-môn

21. Phẩm Kimbila

22. Phẩm Mắng Nhiếc

23. Phẩm Du Hành Dài

24. Phẩm Trú Tại Chỗ

25. Phẩm Ác Hành

26. Phẩm Cụ Túc Giới

Chương Sáu Pháp

Phẩm 01-03

01. Phẩm Ðáng Ðược Cung Kính

02. Phẩm Cần Phải Nhớ

03. Phẩm Trên Tất Cả

Phẩm 04-05

04. Phẩm Chư Thiên

05. Phẩm Dhammika

Phẩm 06-12

06. Ðại Phẩm

07. Phẩm Chư Thiên

08. Phẩm A-la-hán

09. Phẩm Mát Lạnh

10. Phẩm Lợi Ích

11. Phẩm Ba Pháp

12. Phẩm Các Kinh Không Nhiếp Trong Phẩm

Chương Bảy Pháp

Phẩm 01-03

01. Phẩm Tài Sản

02. Phẩm Tùy Miên

03. Phẩm Vaji (Bạt-kỳ)

Phẩm 04-06

04. Phẩm Chư Thiên

05. Phẩm Ðại Tế Ðàn

06. Phẩm Không Tuyên Bố

Phẩm 07-09

07. Ðại Phẩm

08. Phẩm Về Luật

09. Phẩm Các Kinh Không Nhiếp

Chương Tám Pháp

Phẩm 01-03

01. Phẩm Từ

02. Phẩm Lớn

03. Phẩm Gia Chủ

Phẩm 04-06

04. Phẩm Bố Thí

05. Phẩm Ngày Trai Giới

06. Phẩm Gotamì

Phẩm 07-10

07. Phẩm Ðất Rung Ðộng

08. Phẩm Song Ðôi

09. Phẩm Niệm

10. Tham Ái

Chương Chín Pháp

Phẩm 01-03

01. Phẩm Chánh Giác

02. Phẩm Tiếng Rống Sư Tử

03. Phẩm Chỗ Cư Trú Các Hữu Tình

Phẩm 04-10

04. Ðại Phẩm

05. Phẩm Pancala

06. Phẩm An Ổn

07. Phẩm Niệm Xứ

08. Phẩm Chánh Cần

09. Phẩm Bốn Như Ý Túc

10. Phẩm Tham

Chương Mười Pháp

Phẩm 01-03

01. Phẩm Lợi Ích

02. Phẩm Hộ Trì

03. Phẩm Lớn

Phẩm 04-06

04. Phẩm Upàli và Ananda

05. Phẩm Mắng Nhiếc

06. Phẩm Tâm Của Mình

Phẩm 07-09

07. Phẩm Song Ðôi

08. Phẩm Ước Nguyện

09. Phẩm Trưởng Lão

Phẩm 10-12

10. Phẩm Nam Cư Sĩ

11. Phẩm Sa-môn Tưởng

12. Phẩm Ði Xuống

Phẩm 13-22

13. Phẩm Thanh Tịnh

14. Phẩm Thiên Lương

15. Phẩm Thánh Ðạo

16. Phẩm Người

17. Phẩm Janussoni

18. Phẩm Thiện Lương

19. Phẩm Thánh Ðạo

20. Phẩm Các Hạng Người

21. Phẩm Thân Do Nghiệp Sanh

22. Phẩm Không Có Ðầu Ðề

Chương Mười Một Pháp

Phẩm 01-03

01. Phẩm Y Chỉ

02. Phẩm Tùy Niệm

03. Phẩm Tổng Kết

Giới thiệu

Kinh Anguttara Nikàya, dịch là Kinh Tăng Chi Bộ, là bộ thứ tư trong năm bộ kinh tạng Pali: Dìgha Nikàya (Kinh Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Kinh Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Kinh Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Kinh Tăng Chi Bộ), và Khuddaka Nikàya (Kinh Tiểu Bộ).

Bộ kinh nầy được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tạng Pali sang Việt ngữ năm 1976-1977, và được Viện Phật Học Vạn Hạnh, Sài Gòn, ấn hành năm 1980-1981. Trong chương trình phiên dịchấn hành Ðại tạng kinh Việt Nam, bộ kinh được hiệu đính thành 4 tập và tái bản năm 1996, qua số thứ tự 21, 22, 23, và 24.

Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas). Chương Một Pháp (Ekaka Nipàta) gồm các kinh đề cập đến một pháp. Chương Hai Pháp (Duka Nipàta) gồm các kinh có liên quan đến hai pháp, v.v... và tuần tự như thế đến Chương Mười Một Pháp (Ekàdasaka Nipata) gồm các kinh có đề cập đến 11 pháp. Tổng cộng số kinh được ghi nhận là 2,308 bài kinh, nhưng con số này không thống nhất vì số kinh phân biệt không được rõ ràng, và có học giả tính theo số đoạn, tổng cộng là 7,557.

Kinh Tăng Chi Bộ của tạng Pali có bộ chữ Hán tương đương là Kinh Tăng Nhất A-hàm (Ekottara-Agama) do ngài Tăng-già Ðề-bà (Sanghadeva) dịch từ bộ chữ Sanskrit năm 397 TL, trong đời nhà Tiền Tần, và đã được quí ngài Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Thích Thanh Từ dịch sang Việt văn (Ðại tạng kinh Việt Nam, số 25, 26, 27).

(Bình Anson, tháng 09-2000)

 Source: BuddhaSasana

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11534)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11250)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11976)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12456)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17862)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10104)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12267)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15248)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14211)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11998)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15188)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11882)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12331)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11097)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12003)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10505)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12468)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14693)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12560)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16415)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19477)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13020)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12564)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12175)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13406)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11867)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11520)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12662)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14394)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12521)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12778)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9762)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17882)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11052)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8991)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12091)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12938)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16512)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12121)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19530)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14062)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant